Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) Việt - Anh Volume I
- Chương 1: Đức Phật—the Buddha
- Chương 2: Đạo Phật—buddhism
- Chương 3: Nhân Sinh Quan Và Vũ Trụ Quan Phật Giáo—buddhist Points Of View On Human Life And Buddhist Cosmology
- Chương 4: Chuyển Pháp Luân Và Năm Đệ Tử Đầu Tiên—turning The Wheel Of Dharma And The First Five Disciples
- Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—buddhist Councils
- Chương 6: Tam Bảo Và Tam Tạng Kinh Điển—triple Jewels And Three Buddhist Canon Baskets
- Chương 7: Kinh Và Những Kinh Quan Trọng—luật—luận—sutras And Important Sutras-rules-commentaries
- Chương 8: Đạo Và Trung Đạo—path And Middle Path
- Chương 9: Vi Diệu Pháp—abhidharma
- Chương 10: Tam Thời Pháp—three Periods Of The Buddha’s Teachings
- Chương 11: Thân Quyến—the Buddha’s Relatives
- Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—ten Great Disciples
- Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—other Famous Disciples
- Chương 14: Giáo Đoàn Tăng Và Giáo Đoàn Ni—monk And Nun Orders
- Chương 15: Tứ Động Tâm—four Buddhist Holy And Sacred Places
- Chương 16: Những Thánh Tích Khác—other Sacred Places
- Chương 17: Những Đại Thí Chủ—great Donators
- Chương 18: Những Vị Có Công Với Phật Giáo—those Who Had Helped Maintaining Buddhism
THIỆN PHÚC
PHẬT PHÁP CĂN BẢN
BASIC BUDDHIST DOCTRINES
VIỆT-ANHVIETNAMESE-ENGLISH
Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
VOLUME I
CHƯƠNGMƯỜI SÁU
CHAPTERSIXTEEN
NhữngThánh Tích Khác
OtherSacred Places
(A)Bát Đại Linh Tháp—Eight Great Sacred Stupas of Buddhism
(I)Theo truyền thuyết thứ nhất—According to the first legend.
(II)Theo truyền thuyết thứ nhì—According to the second legend.
(B)Những Thánh Tích Khác—Other Sacred Places
I.Đại cương về các Thánh tích khác—An overview on other SacredPlaces.
II.Chi tiết về các Thánh tích khác—Details of other Sacred places:
1)Ajanta.
2)Ajitavati (skt): Sông A Thị Đa Phiệt Để.
3)Thành Phố Amaravati (skt&p).
4)Animeshalochana Stupa.
5)Vương Quốc Cổ Avanti (skt).
6)Vương Quốc Cổ Ayodhya.
7)Bamboo Forest Monastery: Venuvana (skt)—Trúc Lâm Tịnh Xá.
8)Baranasi (skt): Ba La Nại.
9)Điện Bhaja (skt).
10)Tháp Borobudur (skt).
11)Tháp Dhamek.
12)Hang Động tại Thành Dhank (skt).
13)Gandhara (skt): Kiện Đà La—Xứ Kiền Đà Vệ.
14)Ganges (skt): Sông Hằng.
15)Thành Goa (skt).
16)Grdhrakuta (skt): Gijjakuta (p)—Xà Quật Sơn.
17)Vương Quốc Cổ Jalandhara (skt).
18)Jetavana Garden: Jetavanarama (skt)—Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
19)Jetavana Monastery (skt): Kỳ viên Tịnh Xá.
20)Thành Junagadh (skt).
21)Hang Động tại Thành Junnar (skt).
22)Núi Kailasa (skt).
23)Thành Kampilya (skt).
24)Thành Kanchi (skt).
25)Thành Kanheri (skt).
26)Kanyakubja (skt): Thành Khúc Nữ.
27)Kapilavastu (skt): Ca Tỳ La Vệ.
28)Vương Quốc Cổ Kapittha (skt): Kiếp Tỉ Tha—Kiếp Tỳ Tha—TăngKhư Thi.
29)Tự Viện Kapotaka-samgharama (skt).
30)Vương Quốc Cổ Karakhojo (skt): Cao Xương.
31)Thành Karle (skt).
32)Thành Karnatak (skt).
33)Kartchou (skt): Kiệt Xoa.
34)Vương Quốc Cổ Kashmir (skt): Ca Thấp Ba—Kế Tân.
35)Vương Quốc Cổ Kausambi (skt): Kosambi (skt)—Kiều Thương Di.
36)Vương Quốc Cổ Khalcha: Cao Xương.
37)Vương Quốc Cổ Khotan: Xứ Vu Điền.
38)Vương Quốc Cổ Kosala (skt): Kiều Tát La.
39)Vương Quốc Cổ Kondane (skt).
40)Kukkutapada (skt): Kê Túc Sơn.
41)Vương Quốc Cổ Magadha (skt): Xứ Ma Kiệt Đà.
42)Vương Quốc Cổ Mathura (skt): Ma Thâu La.
43)Hồ Mucalinda Lake: Muchilinda (skt).
44)Thành Nagarahara (skt): Nagara (skt)—Kinh thành Na càn ha la.
45)Thành Nagarjunakonda (skt).
46)Nairanjana (skt): Sông Ni Liên Thiền.
47)Nalanda Monastery University: Khu Đại Học Na Lan Đà
48)Thành Nasik (skt).
49)Thành Pataliputra: Kusumapura (skt)—Hoa Thị Thành—Ba Liên Phất.
50)Núi Pragbodhi (skt): Bát La Cấp Bồ Đề—Tiền Chánh Giác Sơn.
51)Vương Quốc Cổ Punach: Bán Nô Ta.
52)Thành Rajapura: Yết Xà Bổ La.
53)Thành Rajagaha (skt): Thành Vương Xá.
54)Rajargrha stupa: Tháp Vương Xá.
55)Rajayatana Tree.
56)Tháp Ratanagraha Chaitya (skt).
57)Vương Quốc Cổ Sankasya (skt): Tăng Già Thị.
58)Sravasti (skt): Xá Vệ Quốc.
59)Thành Vaisali (skt): Tỳ Xá Ly (Quảng Nghiêm Thành).
60)Hang Động tại Verula (skt)
61)Tu Viện Vikramasila (skt).
(A)Bát Đại Linh Tháp
EightGreat Sacred Stupas of Buddhism
(I)Theo truyền thuyết thứ nhất—According to the first legend:
1)Vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sanh: Lumbini, Buddha’sBirth place—See Chapter 15.
2)Ma Kiệt Đà, nơi đầu tiên Đức Phật giác ngộ: Magadha, wherehe was first enlightened—See Chapter 16 (B).
3)Vườn Lộc Uyển nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên:The Deer Park Benares, where he first preached—See Chapter 15.
4)Tịnh xá Kỳ Đà, nơi Đức Phật lộ phép thần thông: Jetavana,where he revealed his supernatural powers—See Chapter 16 (B).
5)Kanyakubja, nơi Phật xuống từ cung trời Đại Phạm: Kanyakubja(Kanaui), where he descended from Indra’s heaven—See Chapter 16 (B).
6)Thành Vương Xá, nơi kết liễu của Đề Bà Đạt Đa, và nơimà Tăng đoàn được thanh tịnh: Rajagrha, where Devadatta was destroyedand the sangha purified—See Chapter 16 (B).
7)Tỳ Xá Ly, nơi Phật tuyên bố sẽ nhập Niết bàn: Vaisali,where he announced his speedy nirvana—See Chapter 16 (B).
8)Câu Thi Na, nơi Đức Phật nhập Niết bàn: Kusinagara, where heentered nirvana—See Chapter 15.
(II)Theo truyền thuyết thứ nhì—According to the second legend:
(A)Tứ Tháp Thiên Trúc—The four stupas in India:
1)Tháp Phật Đản sanh được xây trong thành Ca Tỳ La Vệ: Thestupa at the place of Buddha’sbirth which was built in Kapilavastu.
2)Tháp Phật Thành Đạo ở Ma Kiệt Đà: The stupa at the place ofBuddha’s enlightenment in Magadha.
3)Tháp Phật Chuyển Pháp Luân ở Ba La Nại: The stupa at the placeof Buddha’s first preaching in Benares.
4)Tháp Phật Nhập Niết Bàn trong thành Câu Thi Na: The stupa atthe place of Buddha’s parinirvana in Kusinagara.
(B)Tứ Tháp nơi Cung Trời Đao Lợi—The four stupas which locatedin the heavens of the Trayastrimsas gods:
1)Tháp Thờ Tóc ở phương Đông: The stupa for his hair in the east.
2)Tháp Thờ Móng ở phương Nam: The stupa for his nails in the South.
3)Tháp Thờ Bát ở phương Tây: The stupa for his begging bowl in theWest.
4)Tháp Thờ Răng ở phương Bắc: The stupa for his teeth in the North.
(B)Những Thánh Tích Khác
OtherSacred Places
I.Đại cương về các Thánh tích khác—An overview on other SacredPlaces: Ngoài Tứ Động Tâm vừa kể trong Chương 15,còn có nhiều Thánh tích khác cũng được xem là các điểmhành hương quan trọng của các Phật tử khắp nơi trên thếgiới vì giá trị và bối cảnh lịch sử của các nơi nầytrong văn hóa Phật giáo—Beside the four above mentioned Sacred Placesin Chapter 15, there are other Sacred places also considered as importantplaces for Buddhists from all over the world because of their historicalsignificance in Buddhist culture.
II.Chi tiết về các Thánh tích khác—Details of other Sacred places:
1)Ajanta: Thành phố miền trung tây Ấn độ, nổi tiếng nhờmột dãy những hang động lịch sử Phật giáo đã có từthời 200 trước Tây Lịch và 700 sau Tây Lịch trong vùng Hyderabad.Trong đó có những cấu trúc tịnh xá nhỏ. Trong các hang độngnầy hiện nay còn thấy những bức minh họa về nhữnghình ảnh về cuộc đời Đức Phật, bốn lần ra đi bốncửa của Phật, ý định của Mara, hay Phật nhập Niết Bàn,v.v. Những bức họa trong hang động là những tác phẩm nghệthuật Phật giáo cổ còn lưu trữ. Những câu viết còn tồntại khiến cho những học giả đương thời có được sựhiểu biết quan trọng về đời sống của các Phật tử ẤnĐộ trong giai đoạn đó—City in the western part of central India,famous for a series of Buddhist historical caves excavated in the sixthcentury (dating from 200 BC to 700 AD) in northwest Hyderabad, India. Thecomplex contains over thiny major structures, mostly monastic residences(vihara). In these caves we can still see the best preserved Buddhist frescoesin the world which illustrate the life of the historical Buddha as it isknown from the sutras (Prince Siddhartha Gautama at the four gates, thetemptation of mara, entry into nirvana, ect). The cave paintings are amongthe best preserved ancient works of Buddhist art, and Ajanta’s survivinginscriptions have given contemporary scholars important insights into thereligious lives of Indian Buddhists in this period.
2)Ajitavati (skt): Sông A Thị Đa Phiệt Để—Còn gọi là A LiDa Bạt Đề—A Thị Da Phạt Để—A Chi La Bà Đề—Tên sôngA Li La Bạt Đề (thời Đường gọi sông nầy là Vô Thắng),chảy ngang qua thành Câu Thi Na. Chính tại bờ Tây con sông này,trong rừng Ta La Song Thọ, Đức Thế Tôn đã nhập diệt—Theriver Hiranyavati which runs through Kusinagara. It was on the westernbank of this river in “Sala Forest” where the Buddha entered into Nirvana.
3)Amaravati (skt&p): Thành phố Nam Ấn, cách Guntur chừng 16 dặmvề phía tây, trung tâm nghệ thuật Phật giáo Đại thừa vàonhững thế kỷ thứ II và thứ III. Nơi Vua A Dục đã dựngtrụ tháp thờ xá lợi Phật. Ngôi tháp nầy là tháp lớn nhấtvà nổi tiếng nhất. Tháp bắt đầu được xây lần đầutiên trong thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch, và được làmlớn thêm trong khoảng năm 150 và 200do những nỗ lựccủa ngài Long Thọ. Ngôi tháp nầy lớn hơn ngôi tháp ở Sanchi.Các hàng lan can đẹp mắt mô tả các cảnh trong cuộc đờiĐức Phật. Các hoa văn nổi, với sự phối hợp cân xứngmột cách tuyệt mỹ, được xếp vào số tác phẩm nghệ thuậtvĩ đại nhất của Ấn Độ. Tháp Amaravati có thể tranh đuavới các tháp Sanchi và Bharhut ở phía bắc về vẻ đẹp nghệthuật và tầm cỡ. Giống như các trường phái điêu khắcMathura và Gandhara, trường phái Amaravati có thể gây một ảnhhưởng mạnh mẽ. Các sản phẩm ở đây được mang đếnTích Lan, vùng đông nam Á, và đã có ảnh hưởng đáng kểtrên các kiểu dáng của địa phương—South Indian city, about16 miles from west of Guntur, city of magnificent speciment of Buddhistart near Madras; in the second and third centuries was an important centerfor Buddhist art in which the beginnings of the Mahayana were reflected.Where king Asoka erected a stupa to contain the relics of the historicalBuddha.The stupa at this place is the largest and most famous. Itwas first begun as early as the second century B.C. and was enlarged between150 and 200 A.D. by the efforts of Nagarjuna. This stupa is larger thanthe Sanchi stupa. The beautiful railings depict scenes from the Buddha’slife. The relief medallions, beautiful balanced in composition, are amongthe greatest works of art in India. The Amaravati stupa could well viein artistic beauty and grandeur with the sanchi and Bharhut stupas in theNorth. Like the Mathura and Gandhara schools of sculpture, the Amaravatischool enjoyed great influence. Its products were brought to Ceylon andSouth-East Asia and had a marked effect on the local styles.
4)Animeshalochana Stupa: Tháp Animeshalocana tọa lạc trong sân ThápĐại Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là một ngôi thápnhỏ được dựng lên tại nơi Đức Phật đã đứng trongsuốt tuần lễ thứ ba để cảm niệm ân đức của cây BồĐề đã che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian Ngàithiền định để đạt đến đại giác. Tháp được xây bằnggạch, một số được chạm khắc. Nền tháp hình vuông, nhọnvề hướng đỉnh, với chiều cao khoảng 55 bộ Anh—The Animeshalocanastupa is located within the courtyard of the Maha Bodhi Temple in Bodhgaya.This is a small stupa erected at the site where the Buddha stood duringthe third week, out of gratitude, stood gazing at the Bodhi Tree for givinghim shelter, while he attained Supreme Enlightenment. The stupa was builtin bricks, some of which are carved. It is square at the base and, taperingtowards the top, the height being 55 feet.
5)Avanti (skt): Avanti là một trong những vương quốc cổ nằmvề phía đông bắc vùng mà bây giờ là Bombay. Đây là mộttrong những vương quốc quan trọng của xứ Ấn Độ vào thờiĐức Phật. Về sau này nó bị sáp nhập vào vương quốc MaKiệt Đà. Ma Ha Ca Chiên Diên, một trong mười đại đệ tửcủa Đức Phật, được tôn kính là bậc đệ nhất nghịluận, là người bản xứ của thành Avanti. Ông được vuathành Avanti gửi sang Câu Thi La để nghe những báo cáo vềnhững giáo lý của Đức Phật. Tại đây ông được ĐứcPhật hóa độ và cho quy-y tại thành Xá Vệ, kinh đô củanước Cô Xa La. Sau khi trở thành đệ tử Phật, ông đã trởlại Avanti, và chính tại đây ông đã độ cho vị vua và nhiềungười khác. Có nhiều tháp lớn đã được xây tại vùngnày hãy còn tồn tại hay đã được đào xới lên trong thờicận đại—Avanti is one of the ancient kingdoms, situated in the north-eastof now Bombay. It was one of the major states at the time of the Buddha.Later, it was incorporated into the Magadhan empire. Mahakatyayana, oneof Sakyamuni’s ten great (principal) disciples, respected as the foremostin debate, was a native of Avanti. He had been sent to Kosala by the rulerof Avanti, who had heard reports of Sakyamuni Buddha’s teachings. Afterbecoming Sakyamuni’s disciple, he returned to Avanti, where he convertedthe king and many others. There were many great stupas built in this region,some of which survived or have been excavated in modern times.
6)Ayodhya: A du đà quốc—A Du Đồ quốc—A Thâu Đồ—A Du Đàcó nghĩa là “Không có xung đột.” Nó là một thành phốquan trọng trong vương quốc Kosala, nằm về phía đông bắcẤn Độ trong thời Đức Phật còn tại thế, bây giờ làvùng Oudh. Có một thời, A Du Đà từng là một trung tâm rấtquan trọng đối với Phật giáo Ấn Độ, bản doanh của Phậtgiáo sau thời Đức Phật vài thế kỷ. Người ta nói nhữngdanh Tăng Ấn Độ như Thế Thân và Vô Trước đều đã từnglưu lại tại đây. Và cũng chính tại đây kinh Thắng Man đãđược Đức Phật thuyết giảng—Ayodhya literally means “NoConflict.” It was an important city in the Kingdom of the Kosalas innorth-east of India in the time of the Buddha, present Oudh. At one time,Ayodhya was a very important Buddhist center for Indian Buddhism, headquartersof ancient Buddhism several centuries after the Buddha’s time. Many famousmonks such as Vasubandhu, Asanga, etc. are said to have stayed there. Andthe Buddha preached the Srimala Sutra here.
7)Bamboo Forest Monastery: Venuvana (skt)—Trúc Lâm Tịnh Xá—TrúcLâm Tự—Trúc Viên—Trúc Uyển—Theo Eitel trong Trung Anh PhậtGiáo Từ Điển, Trúc Lâm Tịnh Xá được vua Bình Sa Vươngxây lên cho các Sa môn, về sau ông dâng cho Phật. Có giả thuyếtkhác cho rằng Trúc Lâm Tịnh Xá được trưởng giả Ca-Lan-Đàxây lên và hiến cho Phật. Lại có một giả thuyết khác chorằng Trúc Lâm Tịnh Xá được vua Tần Bà Sa La xây lên vàhiến cho Phật. Khi Đức Phật đến xứ Ma Kiệt Đà, vua TầnBà Sa La đã phát tâm xây dựng một ngôi tịnh xá trong khurừng Karanda để cúng dường cho Phật và Tăng đoàn. Tòa tịnhxá này được xây dựng trên một qui mô rộng lớn, với tổngcộng 16 viện, mỗi viện có 60 phòng, có 500 phòng trên lầu,72 giảng đường. Đây chính là ngôi tịnh xá Trúc Lâm nổitiếng mà Đức Phật và các đệ tử của Ngài đã thuyếtpháp và luận đạo. Trong thời gian này, rất đông ngườikéo đến tịnh xá Trúc Lâm theo học và qui-y với Phật. Trongsố đó, nổi tiếng nhất là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.Hai người này là do một trong năm vị Tỳ kheo A Xà Bà Thệtiến dẫn, mỗi người mang theo một trăm năm chục đệ tửvề quy-y đầu Phật. Điều này có lợi cho việc hoằng hóaPhật giáo và giúp ích cho Tăng đoàn—Bamboo Forest Monasteryor “Bamboo-grove,” a park called Karanda-venuvana, near Rajagrha, madeby Bimbisara for a group of ascetics, later given by him to Sakyamuni.Another version saysthat the park was built by Karanda and laterwas given to Sakyamuni Buddha. Another version saysthat the parkwas built by Karanda and later was given to Sakyamuni Buddha. There isstill another version saysthat the park was built by King Bimbisaraand later was given to Sakyamuni Buddha and His Sangha. When the Buddhaarrived at Magadha, King Bimbisara vowed to built a vihara in the Karandaforest in Rajagrha for the Buddha and his disciples. This vihara was builton an extensive scale, with 16 main halls each fitted with 60 rooms, 500multi-storied buildings, and 72 lecture halls. This was the famous VenuvanaVihara, where the Buddha and his disciples gave lectures and practicedthe Way. At that time, many people flocked to Venuvana Vihara to seek learningfrom the Buddha. The most notable among them were Sariputra and Maudgalyayanawho were introduced by Asvajit, one of the five Bhiksus. They each broughtone hundred followers to take refuge in the Buddha. This was beneficialfor the propagation of Buddhism and the Sangha.
8)Baranasi (skt): Ba La Nại—Tên khác của thành Ba La Nại Tư (Varanasi),một thành phố nằm về phía Bắc Ấn Độ, kinh đô của vươngquốc cổ Ca Thị nằm bên bờ sông Hằng, một trong mườisáu nước của Ấn Độ trong thời Đức Phật còn tại thế.Ba La Nại là một thành phố thiêng liêng cho cả Ấn giáo vàPhật giáo. Lộc Uyển cách Ba La Nại chừng bảy dậm nơi Phậtthuyết giảng bài pháp đầu tiên “Kinh Chuyển Pháp Luân”cho năm vị đệ tử đầu tiên của Ngài—Benares, another namefor Baranasi, a city in northern India, an ancient kingdom and city onthe Ganges River, the capital of the kingdom of Kasi which was one of thesixteen major countries during the Buddha’s time. Baranasi was a sacredcity for both Hinduism and Buddhism. About seven miles from Baranasi wasSarnath or the deer Park (the outskirt of Benares) where the Buddha preachedhis first discourse on the “Sermon on Setting in motion of the Wheelof the Law” to his first five disciples. Baranasi is also the most holycity in India and important in Buddhism.
9)Bhaja (skt): Tên của một địa danh Phật giáo. Nơi đây ngườita tìm thấy một đại sảnh Thánh điện đầu tiên có niênđại từ thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch. Sự nghiêng vàophía trong của các cây cột, các xà nhà bằng gỗ và việcxử dụng phóng khoáng các cây gỗ cho thấy rằng sảnh đườngnầy được mô phỏng theo một nguyên mẫu bằng gỗ. Việcdùng gỗ trong kiến trúc hang đá là một đặc điểm củathời kỳ trước. Các cây trụ bát giác gần tường đềukhông có chạm trổ. Vẫn còn có thể nhận ra dấu vết cáchình vẽ trên cột và hình Đức Phật có hộ vệ cầm đaođi kèm. Có thể tìm thấy các hình chạm trổ của Thần MặtTrời (Surya) và của các nhân vật hoàng gia cỡi voi—Name ofa Buddhist place, where excavators found the earliest Caitya hall, datingfrom the second century B.C. The inward slope of the pillars, the woodenroof girders and the free use of timber show that this hall was an imitationof a wooden prototype. The actual use of wood in rock-cut architectureis a special feature of the earlier period. The octagonal pillars nearthe walls are plain. Traces of paintings on the pillars and figures ofthe Buddha attended by chauri-bearers are still discernible. Sculpturesof Surya and royal personages riding on elephants can be found.
10)Borobudur (skt): Tháp nổi tiếng tại Java, được xây vào khoảngthế kỷ thứ9 sau Tây lịch. Tháp Borobudur là một biểutượng của con đường Đại giác dưới hình thức Mạn đàla. Đây là một trong những tượng đài Phật giáo vĩ đạinhất, một tháp khổng lồ trên đảo Java được các nhà caitrị của triều đại Sailendra xây dựng vào khoảng thế kỷthứ 9. Ngôi tháp này được thiết kế dưới hình thức mộtMạn đà la khổng lồ xây trên một ngọn đồi gồm có 5 mặtbằng vuông vức, được trang hoàng với những bức chạm trổbằng đá. Phủ lên những mặt bằng này là ba bệ tròn vàmột ngôi tháp. Đi lên tượng đài tượng trưng cho con đườngđi từ mê đến Phật—A famous stupa in Java, built around the 9thcentury AD. Boroburdur is a representation of the way of enlightenmentin mandala form. This is one of the great monuments of Buddhism, a hugestupa built on the island of Java around the ninth century by the rulersof the Sailendra dynasty. It was designed as a giant Mandala built overa hill and consisting of five square terraces, which are decorated withstone carvings. Surmounting these are three circular platforms and a stupa.Ascending the monument is meant to symbolize the path from the state ofignorance to buddhahood.
11)Dhamek Stupa: Tháp Dhamek rất nổi tiếng trong thế giới Phậtgiáo. Đây là một ngôi tháp hình trụ, một biểu tượng duynhất còn tồn tại của một thời Ba La Nại cổ huy hoàng,bây giờ được xem như là địa điểm nguyên thủy nơi màlần đầu tiên gặp gỡ năm anh em Kiều Trần Như và cũnglà nơi Đức Phật lần đầu tiên chuyển Pháp Luân. Vị trícủa ngôi tháp có liên quan tới bốn tượng đài khác liênhệ tới đời sống của Đức Phật tại Ba La Nại. Như đãđược ghi lại trong bia ký của vua Mahipalađệ nhấtdưới triều đại Pala vào năm 1026 sau Tây lịch, tháp Dhamektrước đây được biết với tên tháp Dharmachakra. Theo dòngthời gian chữ “Dhammakka” trở thành chữ “Dhammeka”. Đâylà ngôi tháp duy nhất còn sót lại tại Ba La Nại dưới dạngnguyên thủy của nó.Nguyên thủy ngôi tháp Dhamek đượcvua A Dục xây dựng là ngôi tháp hình trụ, có đường kínhdưới nền 28,5 mét và chiều cao là 33,53 mét, nếu kể luônnền thì ngôi tháp này cao 42,06 mét. Kiến trúc bao gồm mộtkhối đá nền như một cái trống hình trụ cao 11,2 mét, nằmtrên mặt đất mà không có nền hình chữ nhật như lệ thường.Trên mặt khối đá này dựng lên một tháp bằng gạch khốihình trụ. Lưng chừng tháp có tám bệ thờ có khoảng cáchđều nhau, rõ ràng là những bệ thờ tượng Phật vì bêndưới đế tượng vẫn còn nguyên. Một vài tượng thờ trongcác bệ này đã được khám phá trong những cuộc đào xớiđã được đưa đến bảo tàng viện để cất giữ. Theo RaiBahadur Dayaram Sahni, người ta xem tám bệ thờ này được dùngđể thờ các vị Phật Tỳ Bà Thi, Thi Khí, Tỳ Xá Phù, CâuLưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca Diếp, Thích Ca Mâu Ni và Di Lặc,hoặc tám bức tượng tiêu biểu cho Đức Phật dưới nhữngdạng thức khác nhau. Ngay bên dưới các bệ thờ là bức điêukhắc lớn, chạm trỗ những mẫu hoa văn tuyệt đẹp vớisự kết hợp hài hòa giữa những hình tượng người và chimchóc. Theo mẫu đá và lối trang trí điêu khắc của thờiđại Khổng Tước. Ngôi tháp nguyên thủy này được vua ADục xây ngay tại nơi mà Đức Phật đã thuyết giảng bàipháp đầu tiên của Ngài cho năm anh em Kiều Trần Như đượcbiết đến như là Kinh Chuyển Pháp Luân. Đây cũng chính lànơi Đức Phật đã trải qua mùa an cư kiết hạ đầu tiên.Trong ba tháng này, chung quanh Đức Phật đã có 61 vị Tỳ KheoA La Hán. Vì vậy vào cuối mùa an cư, Đức Phật đã thuyếtgiảng cho các vị A La Hán như sau: “Này chư Tỳ Kheo! Hãyra đi vì lợi ích của nhiều người, hãy ra đi vì hạnh phúccủa nhiều người, hãy ra đi vì lòng bi mẫn cho cõi trờingười, vì phúc lợi và hạnh phúc của họ. Hãy ra đi thuyếtgiảng giáo pháp của ta, vì giáo pháp này có lợi lạc lúcđầu, lúc giữa và lúc cuối, hãy thuyết giảng yếu nghĩavà phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh của giáo pháp này.” Mộtbia ký vào thế kỷ thứ 12 sau Tây lịch đã ghi lại: “Vạntuế Dhammeka” Cho thấy ngôi tháp này được gọi là Dhammekakể từ thế kỷ thứ 12.
(DhamekStupa in Benares
ThápDhamek trong vườn Lộc Uyển, Ba La Nại)
TheDhamek Stupais very famous in the Buddhist world. This is a solidcylindrical tower, the sole surving symbol of the ancient glory of Sarnath,is now generally regarded to mark the original spot where the Buddha firstencountered the five Parivrajikas and where He delivered the first sermon.The location of the stupa in relation to the other four monuments associatedwith the life of the Buddha at Sarnath also give credence to this identification.As indicated by the inscription of Mahipala I of the Pala dynasty dated1026 A.D., the Dhamek Stupa was earlier known as Dharmachakra Stupa. Theword “Dhammakka” became “Dhammeka” in a course of time. It is theonly monument at Sarnath that still stands it its original form, thoughdilapidated. The Dhamek Stupa originally built by King Asoka is a solidcylindrical tower, 28.5 meters in diameter at the base and 33.53 metersheight or 42.06 meters including the foundation. The structure consistsof a circular stone drum to a height of 11.2 meters resting on the groundwithout the usual rectangular basem*nt. Above this drum rises the cylindricalmass of brickwork. Halfway up the base are eight shelves which must haveheld images and have been made at equal distance all around, which apparentlyenshrined the statues of the Buddha for their seats are still there. Someof the statues discovered during the excavations had been shifted to themuseum, where they lie preserved. According to Rai Bahadur Dayaram Sahni,the eight shelves presumably contained the statues of Vipassayi, Sikhi,Visbha, Kakucchanda, Konagamana, Kassapa, Gotama, and Metteyya Buddha,or eight statues representing the Buddha in different postures. Immediatelybelow theses shelves runs a broad course of beautifully carved yet elaborateornament with geometrical and floral patterns with a combination of humanfigures and birds. Its present stone with ornamental carving is of theMaurya period. This original Stupa was presumably built by King Asoka atthe site where the Buddha preached His first discourse to the group offive monks, which is better known as Dhammacakkappavattan Sutta. This isalso the place where the Buddha spent his first rainy season. During thesethree months, the Buddha had an entourage of 61 Arhat Bhikshus. Therefore,at the end of the rainy season, the Buddha preached the monks: “Monks!For the welfare of the many, for the happiness of the many, to have mercyon the world, for the sake of the gods and men, for their well being andhappiness, roam. Monks! Preach this my dhamma, that is beneficent in thebeginning, beneficent in the middle and beneficent in the end too, preachit in all its meaning and essence, and reveal brahmacariya complete andpure.” A twelfth century rock inscription mentions “Dhammaka Jayatu”,which means ‘Long Live Dhammeka’. This suggests that the Stupa wascalled Dhammaka in the twelfth century.
12)Dhank (skt): Dhank là một địa danh thuộc miền tây Ấn Độ,nằm cách Junagadh 30 dặm về phía tây bắc và cách Porbandar7 dặm về phía nam. Tại đây có bốn hang còn được giữnguyên vẹn, số còn lại đã bị hư hại do sự rã mục củaloại đá mềm. Tuy nhiên, các cây trụ bát giác không có bệvuông thì vẫn tồn tại. Ở đây còn tìm thấy một số tácphẩm điêu khắc thần thoại thô sơ thuộc thời kỳ sau—Dhankis the name of a place in west India, about thirty miles north-west ofJunagadh and seven miles south-east of Porbandar. Here, four plain cavesare preserved, the rest having been destroyed through decay in the softrock. However, the octagonal pillars with their square bases and capitalsstill stand. There are also be found some rude mythological sculpturesof a later date.
13)Gandhara (skt): Kiện Đà La—Xứ Kiền Đà Vệ—Còn gọi làCàn Đà, Hương Biến, Hương Hành, Hương Khiết, Hương Tịnh,và Kiện Đà La, Kiện Đà La, tên một vương quốc cổ ởvùng bắc Ấn Độ. Nơi đây đã từng là vương quốc củaDharmavardhana, con trai của vua A Dục. Vùng đất nằm về phíatây bắc miền Punjab của Ấn và Đông Bắc của Kashmir, naygồm các miền A phú hãn và một phần của Hồi quốc, nằmdọc theo sông Kabul giữa khoảng Kunar và sông Ấn hà, gồmkhu Peshawar và Rawalpindi, tây bắc vùng Punjab. Đây là một trongnhững trung tâm lớn của văn hóa Phật giáo vào thế kỷ thứhai sau CN. Những nhà nghệ thuật trong vùng này đã sáng tạora những bức chạm trổ nổi tiếng trong thời kỳ ban sơ củaPhật giáo, mà kiểu mẫu thường được xem như là “trườngphái Hy Lạp” vì những chạm trổ này cho chúng ta thấy ảnhhưởng của Hy Lạp trong thời đi chiếm cứ các vùng lân cận.Trước khi vua Ca Nị Sắc Ca trị vì, về phía Tây Bắc Ấnlà nơi sản sanh ra trường phái nghệ thuật Phật giáo CànĐà La. Trường phái này ảnh hưởng bởi điêu khắc Ấn Độcách mạng hóa nghệ thuật tạc tượng Hy Lạp. Có nhiều biểutượng diễn đạt nghệ thuật này như bàn chân của ĐứcPhật, bánh xe pháp, cây Bồ Đề nơi Đức Phật giác ngộ,cũng như vô số hình tượng Bồ Tát với nửa người nửaThánh như là những vị thần của Hy Lạp. Theo lịch sử Phậtgiáo, Gandhara là nơi tổ chức đại hội kết tập kinh điểnlần thứ tư vào khoảng những năm cuối thế kỷ thứ nhấtdo vua Ca Nị Sắc Ca I, vị vua thứ ba dưới triều đại Kusanabảo trợ. Tuy nhiên, ngày nay nơi nầy chỉ còn thấy nhữngcái nền của vô số tu viện đã bị hủy hoại trong các cuộcxâm lăng vào thế kỷ thứ V. Theo Eitel trong Trung Anh Phật HọcTừ Điển thì Càn Đà La là tên một vương quốc cổ nằmvề phía tây bắc Punjab (cũng còn gọi là nước Trì Địavì xưa tại nước nầy có nhiều vi Thánh hiền tu hành đắcđạo), từng là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng. Trongtiền kiếp khi còn là vị Bồ Tát, Đức Phật Thích Ca MâuNi đã từng móc mắt mình bố thí cho người khác. Đây cólẽ là chuyện của một vị thống đốc tại đây bị mócmắt—Name of an ancient kingdom, north of India. This was a former kingdomof Dharmavardhana, son of king Asoka. The region in the extreme north-westof Punjab of India and northeast of Kashmir, today including southern Afghanistanand parts of Pakistan, lies along the Kabul river between the Kunar (Khoaspes)and the Indus rivers, comprising the district of Peshawar and Rawalpindiin the northwestern Punjab. Its old capital was Puskaravati. This was oneof the greatest centers of Buddhist art and culture during the 2nd centuryA.D. Artists in this area produced some of the greatest early Buddhistsculptures, whose styles is commonly referred to as “Greco-Buddhist”because it shows signs of influence from the Greeks who had conquered neighboringareas. Before Kaniska’s reign, Northwest India had been the birth placeof the Gandhara school of Buddhist sculpture which influenced by Greekstatuary, revolutionized Indian sculpture. There were such symbols as stylizedrenderings of the Buddha footprints, the wheel of the law, the Bodhi Treeunder which the Buddha attained enlightenment, and a number of Bodhisattvaimages of half-divine half-human. According to Buddhist history, the “FourthBuddhist Council” was held some time near the end of the first century.It was sponsored by Kanisca I, third king of the Kusana dynasty. However,most of monasteries had been destroyed in invasions from outsiders in the5th century and only foundations are preserved. According to Eitel in TheDictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Gandhara, an ancient kingdomin the north west of Punjab, famous as a centre of Buddhism . Sakyamuniin his former life, is said to have lived there and torn out his eyes tobenefit others, probably a distortion of the story of Dharmavivardhana,who as governor of Gandhara was blinded by order of a concubine of hisfather, Asoka.
14)Ganges (skt): Sông Hằng—Hằng Hà—Đây là một trong tám consông lớn ở Ấn Độ, một trong bốn con sông nổi tiếng vàothời Đức Phật—This is one of the eight big rivers of India, oneof the four famous rivers at the time of the Buddha.
(GangesRiver’s dawn
Cảnhbình minh trên sông Hằng Hà)
SôngHằng, một trong bốn con sông nổi tiếng ở Ấn Độ, phátnguồn từ phía đông hồ A Na Bà Đáp Ta, chảy ra biển phíađông nam. Theo truyền thuyết thì sông Hằng Hà chảy ra từtrung tâm lổ tai của Thần Ma Hê Thủ La, chảy vào hồ A NậuĐạt (mà ngài Huyền Trang ghi trong Tây Du Ký là Căng Già),chảy qua Ngưu Khẩu (có nơi nói là Sư Tử Khẩu, hay Kim TượngKhẩu), đoạn chảy quanh hồ rồi đổ ra biển theohướngđông nam. Hằng Hà là một con sông rất lớn và rất dài ởẤn Độ. Dưới đáy và dọc theo hai bên bờ của con sôngnầy có rất nhiều cát—One of the four famous rivers in India,originated from the east of the Lake Anavatapta, in Tibet; then flows tothe sea in the southeast. Ganges, said to drop from the centre of Siva’sear into the Anavatapta lake, passing through an orifice called (variously)ox’s mouth, lion’s mouth, golden elephant’s mouth, then round thelake and out to the ocean on the south-east. Ganges River (Gangha) is avery large and long river in India. The bed and banks of this river arecovered with innumerable grains of sands.
15)Goa (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng tây Ấn Độ. Theo GiáoSư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, tình hình Phậtgiáo đã phồn thịnh tại Goa và các vùng xung quanh, xa hơnvề phía nam, trong thế kỷ thứ sáu, đã được chứng minhqua việc tìm thấy những bản khắc chữ tại Hire-Gutti, phíabắc quận Kanara, ghi lại một sự cúng dường của vua xứGoa là Asankita thuộc dòng Bhoja, cho một tu viện Phật giáo.Tương tự, việc tìm ra một tượng Phật có niên đại sauhơn trong làng Mushir của quận Goa cho thấy rằng đạo Phậtđã tiếp tục phồn thịnh trong một thời gian dài tại đây.Các tu sĩ tại Goa vào thời vua Kayakesin của dòng Kadamba cóđược nhắc đến trong bộ Dvyasrayakavya của thế kỷ thứ12—Name of a Buddhist place in west India. According to Prof. Bapat inthe Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, Buddhism flourished in and aroundGoa, farther south, in the sixth century A.D. is proved by the discoveryof the Hire-Gutti plates (north of Kanara district) which record an endowmentto a Buddhist vihara by the Bhoja King, Asankita of Goa. Similarly, thediscovery of Buddhist statues of later date in the village of Mushir inthe Goa district shows that Buddhism continued to flourish at the timeof the Kadamba king, Jayakesin, are mentioned to in the Dvyasraya-kavyaof the twelfth century.
16)Grdhrakuta (skt): Gijjakuta (p)—Xà Quật Sơn—Linh Thứu Sơn—ThứuĐầu Sơn—Thứu Lĩnh—Thứu Phong—Vulture Peak—“Đỉnh ThứuSơn.” là tên của một ngọn núi gần thành Vương Xá ởvùng Đông Bắc Ấn Độ, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đãthuyết giảng rất nhiều kinh điển, bao gồm Kinh Pháp Hoa.Người ta tường thuật núi này mang tên Linh Thứu sau khi bọnma vương hóa ra những con kênh kênh để làm phân tâm ngàiA Nan trong lúc tọa thiền. Đây cũng là một trong những nơidùng làm an cư kiết hạ cho Phật và tăng già. Theo Eitel trongTrung Anh Phật Học Từ Điển, Thứu Sơn (trong núi Kỳ Xà Quật),gần thành Vương Xá, bây giờ gọi là Giddore, được gọinhư vậy vì một thời ma vương Pisuna đã giả dạng làm chimkên kên quấy phá thiền hành của Ngài A Nan Đà; cũng có thểvì hình dáng của núi giống như con chim kên kên, hay là vìnơi đó chim kên thường lui tới ăn thịt người chết (theotục lâm táng của người bắc Ấn). Nơi đây Đức Phật thườnglui tới để thuyết giảng kinh pháp; một cảnh tưởng tượngvề Phật giảng kinh Pháp Hoa tại đây. Nơi nầy còn đượcgọi là Linh Thứu Sơn, và Kinh Pháp Hoa cũng còn được gọilà Thứu Phong Kệ. Cũng gọi là núi “Linh Thứu” hay núi“Hình Chim Kên Kên”vì ngọn núi có hình dáng giốngnhư chim kên kên, và cũng bởi chim kên kên thường hay tụtập sống trên đỉnh núi. Đây là một trong năm ngọn núinổi tiếng trong thành Vương Xá trong thời Đức Phật còntại thế, ngày nay là thành phố Rajgir, trong tiểu bang Bihar,thuộc đông bắc Ấn Độ. Xưa kia, nhiều đạo sĩ thườngẩn tu trong các hang động ở ngọn núi này, và Đức Phậtcũng hay ghé vào đây để tọa thiền mỗi khi Ngài đến VươngXá hoằng pháp. Người ta nói Đức Phật đã thuyết nhiềukinh Đại Thừa quan trọng trên đỉnh núi nầy, trong đó cóKinh Pháp Hoa.
(GrdhrakutaMountain in Sravasti
NúiLinh Thứu tại xứ Xá Vệ)
“VulturePeak.” is the name of a Mountain near Rajagrha in north east India, onwhich Sakyamuni Buddha is said to have delivered a number of sermons, includingthe Lotus Sutra. It is reported to have received its name after Mara tookthe form of a vulture in an attempt to distract Ananda from his meditation.This is also one of the many Retreats given to the Buddha for the use ofthe Sangha. According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English BuddhistTerms, Vulture Peak, near Rajagrha, the modern Giddore, so called becauseMara Pisuna once assume there in guise of a vulture to interrupt the meditationof Ananda; more probably because of its shape, or because of the vultureswho fed there on the dead; a place frequented by the Buddha; the imaginaryscene of the preaching of the Lotus Sutra, and called the Spiritual VulturePeak, as the Lotus sutra is also known as the Vulture Peak Gatha. Alsocalled “Vulture’s Peak.” It was so called because it resembled avulture-like peak and also because the vultures used to dwell on its peak(said to be shaped like a vulture’s head). It is is one of the five famoushills surrounding the inner area of Rajagaha during the Buddha’s time,present-day town of Rajgir in Bihar state of the northeast India. Its cavernswere always inhabited by the ascetics of ancient days and the Buddha alsocame to stay at this place to sit meditation several times during his sojournin Rajagaha. It is said that the Buddha preached there many important discoursesof the Great Vehicle including the Lotus Sutra.
17)Jalandhara (skt): Xà Lạn Đạt Na—Tên của một vương quốcvà thành phố cổ trong khu vực Punjab, bay giờ là Jalandar. Theotruyền thuyết Phật giáo, một vị vua của vùng trung thổẤn Độ tên Udita, gặp một vị A La Hán và cảm kích Phậtgiáo nên ông trao trọn quyền về vấn đề Tăng sự cho vịLa Hán. Sau đó ông chu du khắp Ấn Độ và dựng nhiều thápcũng như tự viện tại các thánh địa. Theo ngài Huyền Trangtrong Tây Vực Ký, có khoảng 20 ngôi tự viện với 1.000 Tăngsĩ, cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa, nhưng con số Tiểu thừarất ít. Về sau một tự viện tênNagaradhana được tìmthấy, đây là nơi ngài Huyền Trang đã lưu lại để nghiêncứu A Tỳ Đạt Ma với ngài Nguyệt Trụ—Name of an ancientkingdom and city in the Punjab, the present Jalandar. According to Buddhistlegends, a former king of Mid-India named Wu-Ti (Udita) met an Arhat andappreciated Buddhism. He gave the Arhat sole control of matters relatingto monks. Then he travelled all over India and erected stupas and monasteriesat all the sacred places. According to Hsuan-Tsang in the Records of theWestern Lands, there were about 20 monasteries with 1,000 monks, who wereeither Hinayanists or Mahayanists, but the number of Hinayanists was few.Later, a monastery called Nagaradhana where Hsuan-Tsang studied Abhidharmawith Acarya Candravarma was found.
18)Jetavana Garden: Jetavanarama (skt)—Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên—Tạithành Xá Vệ (Sravasti) có vị trưởng giả giàu có tên Tu ĐạtĐa (Sudatta), lại cũng có tên là Cấp Cô Độ (Anathapindika),người đã mua khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà để kiến lậpmột khu tịnh xá cao rộng trang nghiêm mang tên Kỳ Thọ CấpCô Độc Viên. Ông cung thỉnh Đức Phật và đệ tử củaNgài an cư kiết hạ và giảng thuyết Phật pháp tại địaphương. Tu Đạt Đa là vị hộ pháp trung thành của Phật giáothời bấy giờ). Khu vườn gần thành Xá Vệ, người ta nóitrưởng giả Cấp Cô Độc đã mua lại từ tay thái tử KỳĐà, trong đó những khu tịnh xá được xây dựng lên, lànơi mà Đức Phật thích ghé về nghỉ ngơi nhất. Theo GiáoSư Soothill trong Trung Anh Phật Học Từ Điển (dựa theo PhápUyển Châu Lâm tập 39), vườn Kỳ Thọ gần thành Vương Xá,được cúng dường cho Phật và Tăng đoàn của Ngài bởi Tháitử Kỳ Đà và nhà tỷ phú Cấp Cô Độc. Người ta nói NgàiCấp Cô Độc đã mua lại khu vườn nầy từ Thái tử KỳĐà bằng vàng, xây dựng tịnh xá, rồi cúng dường cho ĐứcPhật. Thái tử Kỳ Đà rất cảm động trước nghĩa cử ấynên ông bèn hiến tất cả những cây và khoản đất còn lại.Chính vì vậy mà khu vườn nơi Phật thường hay thuyết phápnầy có tên đôi của hai vị thí chủ là Kỳ Thọ Cấp CôĐộc Viên (tức là cây của thái tử Kỳ Đà và vườn củaông Cấp Cô Độc). Đây là khu an cư kiết hạ mà Đức Phậtrất thích. Hai trăm năm sau đó cả khu vườn và tịnh xá bịthiêu rụi, 500 năm sau được xây lại nhỏ hơn, và rồi mộtthế kỷ sau lại bị đốt cháy rụi lần nữa; mười ba nămsau đó được xây lại bằng khu tịnh xá nguyên thủy, nhưngmột thế kỷ sau đó lại bị hủy diệt (Về phương bắcnước Kiều Tát La)—A park near Sravasti, said to have been obtainedfrom prince Jeta by the elder Anathapindika, in which monasterial buildingswere erected, one of the favorite resorts of Sakyamuni Buddha. Accordingto Professor Soothill in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms,Jetavana Garden, or Garden of Jeta and Anathapindika is a park near Sravasti,bought by Anathapindika from prince Jeta, which was offered to the Buddhaand his Sangha as a result of the collaboration of Prince Jeta and billionaireAnathapindika. It is said to have been obtained from Prince Jeta by theelder Anathapindika. Anathapindika paid for Prince Jeta’s garden in gold,erected monasterial buildings, and donated it tothe Buddha. PrinceJeta was very moved with this, thus he donated all the trees and anotherparcel of land to the Buddha. Thus the double name for the site where theBuddha preached his teachings: “The Garden of Jeta and Anathapindika.”This garden was the favourite resort of Sakyamuni. Two hundred years laterit is said the park has been destroyed by fire, rebuilt smaller 500 yearsafter, and a gain a century later burnt down; thirteen years afterwardsit was rebuilt on the earlier scale, but a century later entirely destroyed.
19)Jetavana Monastery (skt): Kỳ viên Tịnh Xá—Thệ Đa Lâm—Jetavana—JetaGrove—Tên của một ngôi tịnh xá Phật giáo tại Ấn Độtọa lạc trong thành Xá Vệ (ngôi chùa gần thành Savatthi ởmiền bắc Ấn Độ, nơi đức Phật thường dạy đạo). VườnKỳ Thọ Cấp Cô Độc là kết quả của sự hợp tác cúngdường lên Phật của Thái tử Kỳ Đà và trưởng giả CấpCô Độc. Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển củaGiáo Sư Soothill, đây là tịnh xá bảy từng cùng với côngviên mà ngài Cấp Cô Độc đã mua từ Thái Tử Kỳ Đà đểhiến cho Phật. Đây là nơi an cư mà Đức Phật rất thích,cũng là nơi mà nhiều bộ kinh đã được Phật thuyết giảng.Nhà triệu phú Sudatta được người ta ban cho danh hiệu CấpCô Độc vì ông thường giúp đở những trẻ mồ côi và ngườicô độc. Sau khi thảo luận với thái tử Kỳ Đà, Cấp CôĐộc bèn lấy vàng tới mua ngôi vườn và hiến cho Đức Phật.Kỳ thật, địa điểm này do ngài Xá Lợi Phất lực chọnvà ngài đã trải qua hai mươi lăm lần an cư kiết hạ tạiđây. Đây cũng là nơi mà Đức Phật rất thích, vì chínhNgài cũng đã trải qua 19 mùa an cư tại vườn Kỳ Thọ này.Kỳ Viên cũng là tên của một ngôi tịnh xá ở Tích Lan đượcvua Mahasena xây dựng cho chư Tăng phái Đại Thừa. Phái nàycó hệ kinh điển riêng cho đến thế kỷ thứ 12 khi vua Parakramabahuđệ nhất ra lệnh cho phái này nhập vào phái Nguyên Thủy—Nameof an Indian Buddhist monastery located at Sravasti. Jetavana Garden resultedfrom the collaboration of Prince Jeta and billionaire Anathapindika andwas made as an offering to the Buddha. According to Eitel from The Dictionaryof Chinese-English Buddhist Terms, this is the seven-storey abode and parkpresented to Sakyamuni by Anathapindaka, who bought it from the princeJeta. It was a favourite resort of the Buddha, and most of the sutras datefrom this spot.The millionaire Sudatta, he was given the epithet“Anathapindika” because he always helped the orphans and the Solitary.After discussing with prince Jeta, Anathapindika went back home to beinggold to buy the garden and donated the site to the Buddha. In fact, thesite was selected by Sariputra, who spent the last twenty-five rainy seasonretreats of his life there. It was also the Buddha’s favorite retreat,and he spent nineteen rainy season retreats at Jetavana. Jetavana is alsothe name of a monastery in Sri Lanka, built by king Mahasena (334-362)for Mahayana monks. It maintained a separate Nikaya until the twelfth century,when king Parakramabahu I ordered it to amalgamate with the Mahaviharanikaya.
20)Junagadh (skt): Thủ phủ của Saurashtra, miền tây Ấn Độ—TheoGiáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, Junagadhlà thủ phủ của Saurashtra, miền tây Ấn Độ, nhờ sự hiệndiện của các chỉ dụ của vua A Dục mà từ lâu đã đượccác tín đồ Phật giáo biết đến nhiều và trở thành mộttrung tâm thu hútđối với họ. Gần đồi Girnar, ngàynay người ta tìm thấy trên một tảng đá lớn toàn bộ vănbản của “Mười Bốn Chỉ Dụ trên đá.” Các văn bảnnầy được khắc bằng chữ Brahm, còn được lưu giữ khátốt. Các hang động quan trọng nhất đào thấy được ởSaurashtra đều nằm bên trong và xung quanh Junagadh. Các hang nầycó lẽ đã có nhiều trong thế kỷ thứ 7, vì trong khi đếnviếng Junagadh, Huyền Trang đã ghi nhận ít nhất là năm mươitu viện loại nầy, với ít nhất là ba ngàn tu sĩ ThượngTọa Bộ (Sthavira sect). Các di tích của hai ngọn tháp xây bằnggạch mới được tìm thấy gần đây tại Intwa trên một ngọnđồi cách bản chỉ dụ của vua A Dục độ ba dặm. Ngoàira, còn có một con dấu bằng đất nung của một cộng đồngTỳ Kheo từng sống trong tu viện của hoàng đế Rudrasena I,thuộc dòng dõi Ksatrapa đã cai trị xứ nầy từ năm 199 đến222—According to Prof. Bapat in the Twenty-Five Hundred Years of Buddhism,Junagadh, the capital of the province Saurashtra, west of India, whichowing to the presence of the Asoka edict had already become famous amongBuddhists, became a centre of attraction for them. In the vicinity of GirnarHills, we find now on a huge rock the full text of what are known as theFourteen Rock Edicts. The text inscribed in Brahmi characters on this rockis remarkably well preserved. Naturally, the most important of the cavesexcavated in Saurashtra are in and around Junagadh. They must have beennumerous, for while visiting Junagadh, Hsuan-Tsang had noticed at leastfifty convents with at least three thousand monks of the Sthavira sect.The remains of two brick-built stupas have recently been exposed at Intwaon a hill about three miles away from Asoka’s edict. Besides, excavatorsfound a baked clay seal belonging to a bhiksusangha which resided in thevihara of Maharaja Rudrasena. The king was most probably Rudrasena I ofthe Ksatrapa family who ruled India from 199 to 222 A.D.
21)Junnar (skt): Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm PhậtGiáo, Junnar là một trong những địa danh Phật giáo nổi tiếngở vùng tây Ấn Độ. Tại đây có đến 130 hang động tạothành năm nhóm riêng biệt trong phạm vi một bán kính bốndặm tính từ Junnar. Do đó, có thể nói thành phố nầy làkhu tu viện lớn nhất ở miền tây Ấn Độ. Số lượng đôngđảo và kích thước nhỏ bé của các hang cho thấy các hangnầy thuộc về một thời kỳ xa xưa—Name of a Buddhist placein west India. According to Prof. Bapat in the Twenty-Five Hundred Yearsof Buddhism, this is one of the most famous Buddhist places. There areas many as 130 caves carved in five separate groups within a radius offour miles from Junnar. Hence, the town can be said to be the largest monasticestablishment in western India. The frequency and smallness of the cellsindicate that they belong to an early period.
22)Kailasa (skt):Tên của một ngọn núi thiêng liêng nằmvề phía Tây của dãy Hy Mã Lạp Sơn, người ta tin rằng đâylà trú xứ của thần Siva của Ấn Độ giáo và của Cakrasamvaratrong Phật giáo Tây Tạng. Ngọn núi này được coi là thiênđường của Shiva, nổi tiếng cho cả Ấn và Phật giáo. Ngọnnúi này là một trong những ngọn núi nằm trong Núi Tuyết.Đây là một trong những địa điểm hành hương quan trọngnhất của Phật tử Tây Tạng—Silver Mountain, name of a mountainin the Himalayas famous in myth and legend for both Hinduism and Buddhism.Sacred mountain in the western Himalayas believed to be the abode of thegod Siva by Hindus and of Cakrasamvara by Tibetan Buddhists. This is oneof the mountains in the Himalayas famous in myth and legend for both Hinduismand Buddhism. It is one of the most important pilgrimage spots for TibetanBuddhists.
23)Kampilya (skt): Tên của một địa danh hẻo lánh ở miền tâyẤn Độ, gần Navasari. Một bản chữ khắc trên phiến đồngcủa vua dòng Rastrakuta là Dantivarman ở Gujarat, ghi chép rằngnăm 865, khi vua xuống tắm dưới sông Puravi, nay là sông Purnaở quận Surat, theo sự thỉnh cầu của một tu sĩ, nhà vuađã cấp đất cho tu viện Kampilya, nơi có năm trăm tu sĩ củaTăng đoàn Sindhu Desa đang sống. Lại có một bản khắc khácghi rằng vào năm 884 vị vua nầy lại cấp đất cho cùng tuviện nầy. Dường như các cộng đồng Phật giáo từ vùngSindh, có lẽ vì sợ những người Hồi giáo, đã di chuyểnđến xây dựng tu viện tại Kampilya, nơi vốn nổi tiếng làmột thánh địa—Name of a solitary placed named Kampilya in westIndia, near Navasari. A copper plate inscription of the Rastrakuta king,Dantivarman of Gujarat, dated 865, records that, after bathing in the riverPuravi, now Purna river in the Surat district, at the request of a monk,the king donated lands for the Kampilya vihara, where there lived fivehundred monks of the Sangha of Sindhu Desa. Another inscription of theRastrakuta king, Dharavarsa, records a similar grant to the same monasteryin 884 A.D. It seems that the Buddhist community migrated from Sindh, presumablyfor fear of the Muslims and founded a vihara at Kampilya which was alreadyknown as a sacred place.
24)Kanchi (skt): Tên của một địa danh Phật giáo ở vùng Nam ẤnĐộ. Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo,Kanchi với điện Rajavihara và một trăm tu viện tại đây đãtừng là một pháo đài của Phật giáo tại miền Nam Ấn Độ.Năm tượng Phật đã được tìm thấy gần thành phố nầy.Phật Âm (Buddhaghosa), luận sư Pali nổi tiếng, trong bộ luậnthư của mình (Manorathapurani), có nói rằng ông viết cuốnsách nầy là theo yêu cầu của Thượng Tọa Jotipala cùng ởvới ông tại Kanchipura. Huyền Trang cũng nói đến một ngườitên Dhammapala ở Kanchi, vốn là một đại luận sư của Nalanda.Tại Triều Tiên cũng đã tìm thấy một bản chữ khắc bằngthơ nói về nơi nầy. Trong lời tựa của tác phẩm nầy doLý Tư viết năm 1378, có kể về cuộc đời và chuyến đicủa một tu sĩ Ấn Độ tên là Dhyanabhadra. Chuyện kể nầycho chúng ta biết rằng tu sĩ ấy là con trai của một ông vuaở Ma Kiệt Đà và một bà hoàng ở Kanchi, vị tu sĩ ấy đãđược nghe một nhà thuyết pháp Phật giáo nói về bộ kinhKaranda-vyuhasutra. Như vậy, mãi cho đến thế kỷ thứ 14, nơinầy mới được biết đến là một trung tâm Phật giáo—Nameof a Buddhist place in Southern India. According to Prof. Bapat in theTwenty-Five Hundred Years of Buddhism, Kanchi, with its Rajavihara andits hundred monasteries, was a famous stronghold of Buddhism in the South.Five Buddha images have been discovered near this town. The famous Palicommentator, Buddhaghosa, has mentioned in his commentary (the Manorathpurani)that he wrote it at the request of the Venerable Jotipala who was stayingwith him at Kanchipura. Hsuan-Tsang also mentions a certain Dharmapalafrom Kanchi as being a great master at Nalanda. In Korea, an inscriptionin verse has been discovered. In a preface to it written by Li-Se in 1378A.D., there is an account of the life and travel of an Indian monk calledDhyanabhadra. This account tells us that this monk was the son of a kingof Magadha and a princess from Kanchi and that when he visited Kanchi heheard a sermon given by a Buddhist preacher on the Karanda-vuyhasutra.Clearly, this place was a recognized centre of Buddhism as late as the14th century A.D.
25)Kanheri (skt): Tên của một địa danh Phật giáo ở vùng tâyẤn Độ. Theo Giáo Sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm PhậtGiáo, Kanheri có trên một trăm hang động, vốn cũng là khutu viện lớn. Qua một số bản chữ khắc tìm thấy ở đâycó niên đại từ thế kỷ thứ hai cho đến thời đại ngàynay, người ta có thể dựng lại lịch sử nơi nầy khá đầyđủ. Thời gian bắt đầu xây dựng các hang nầy có thể làvào triều đại Gautamiputra Satakarmi khoảng năm 180. Thỉnh thoảnglại có thêm những công trình đào sâu và điêu khắc. Việcđưa tượng Phật vào khu vực nầy được biết đến qua mộtbản khắc chữ thuộc thế kỷ thứ tư, ghi lại việc mộtngười tên Buddhaghosa cúng tặng một tượng Phật. Các vuaSihalar ở Puri, vốn là những chư hầu của của các vươngquốc Rastrakuta, có mối quan tâm đặc biệt đối với khu tuviện ở Kanheri nên đã cúng dường rộng rãi như được ghichép trong các phiến đồng thuộc những năm 843, 853 và 877.Các chữ khắc của những năm 991, 999 và 1004 còn cho biếtrằng các tu sĩ Phật giáo trong thời gian nầy vẫn còn ởtại các hang. Một bản khắc chữ mới đây bằng tiếng Nhậtcủa một khách hành hương Phật tử thuộc phái Nhật Liêntông (Nichiren sect) trên vách hang số 66, khẳng định tầm quantrọng của các hang này ngay cả trong thời đại hiện nay—Nameof a Buddhist place in west India. According to Prof. Bapat in the Twenty-FiveHundred Years of Buddhism, there are more than one hundred caves at Kanheriwhich was also a large monastic establishment. From a number of inscriptionsfound here, dating the second century A.D. to modern times, a more or lessconnected history of the place can be reconstructed. The beginning of thecaves can be attributed to the reign of Gautamiputra Satakarni about 180A.D. Many excavations and sculptures were added from time to time. Theintroduction of the Buddha image in the establishment is shown by a fourthcentury inscription recording the dedication of a Buddha image by a certainBuddhaghosa. The silahar rulers of Puri, who were feudatories of the Rastrakutasovereign, took a special interest in the Buddhist establishment at Kanheriand made liberal donation to it as recorded their copper-plate grants dated765, 775, 799. Inscriptions of 913, 921, and 931 further show that theBuddhist monks still continued to occupy the caves. A modern inscriptionof a Buddhist pilgrim of the Nichiren sect engravedon the wallsof cave number 66 testifies to the continued importance of the caves evenin modern times.
26)Kanyakubja (skt): Thành Khúc Nữ—Tên của một thành phố cổnằm về những tỉnh phía Tây Bắc Ấn Độ, tọa lạc trênbờ sông Kali Nadi, một nhánh của sông Hằng, bây giờ là Farrukhabad.Theo truyền thuyết Phật giáo, chính tại thành Khúc Nữ nướcTăng Già Thi, nơi Phật giáng trần từ cung trời Đao Lợi.Phế tích của thành phố nầy lớn hơn thành phố Luân Đôn.Theo ngài Pháp Hiển trong Tây Vực Ký, cả Đại thừa lẫnTiểu thừa đều tồn tại tại đây, tuy nhiên, Tiểu thừavẫn chiếm đa số—Name of a river in an ancient city in the north-westernprovinces of India, situated on the bank of Kali Nadi, a branch of theGanga, in the modern district of Farrukhabad. According to the Buddhistlegends, Kanyakubja (Kanauj) is said where the Buddha descended from Indra’sHeavens. The ruins of the ancient city are said to occupy a site largerthan that of London. According to Fa-Hsien in the records of the BuddhistKingdoms, both Mahayana and Hinayana existed here, however, Hinayana stillretained the majority.
27)Kapilavastu (skt): Ca Tỳ La Vệ—Kapilavatthu (p)—Ca Tỳ La Vệ—KiếpTỳ La Phạt Thốt Đổ—Thành Ca tỳ la vệ, kinh đô của dòngtộc Thích Ca, nơi trị vì của Vua Tịnh Phạn và Hoàng HậuMa da, kinh thành này tọa lạc dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn.Tuy nhiên, đất nước nầy bị tiêu diệt ngay khi Đức Phậtcòn tại thế. Theo truyền thuyết thì xứ nầy khoảng 100 dậmvề phía Bắc của thành Ba La Nại, tây bắc của Gorakhpur bâygiờ. Thành Ca Tỳ La Vệ là kinh đô của vương quốc nơi màĐức Phật Thích Ca Mâu Ni đã được hạ sanh trong vườn LâmTỳ Ni, thuộc ngoại thành Ca Tỳ La Vệ. Ca Tỳ La Vệ là thànhphố nơi Đức Phật đã trải qua thời niên thiếu cho đếnkhi Ngài quyết định xuất gia cầu giải thoát. Ngày nay CaTỳ La Vệ được các nhà khảo cổ Ấn Độ xác nhận thuộclàng Tilaurakota trong địa hạt xứ Therai, thuộc xứ Nepal. Tuynhiên, theo ngài Pháp Hiển trong Tây Vực Ký: “Xứ này trốngkhông hoang tàn, rất ít cư dân. Đường sá không an toàn vìcó nhiều voi trắng và sư tử. người ta không thể du hànhnếu không đề phòng cẩn thận.” Sự xác định về kinhthành Ca Tỳ La Vệ, nơi mà Đức phật đã trải qua 29 nămđầu đời của Ngài trước khi Ngài xuất gia tìm đạo vẫncòn là một vấn đề đang được tranh luận hàng trăm nămnay. Tilaura Kot bên Nepal và Piprahwa bên Ấn Độ đều là nhữngnơi mà hai bên Nepal và Ấn Độ vẫn cho rằng đó chính làthành Ca Tỳ La Vệ cổ xưa. Vào năm 1974, sau khi tìm thấy nhữngdi tích quan trọng của Phật giáo cũng như những bia ký từnhững phế tháp và tịnh xá tại đây, chính phủ Ấn Độcho rằng chính Piprahwa nằm trong quận hạt Basti, thuộc bangUttar Pradesh mới thực là vị trí của kinh thành Ca Tỳ La Vệ.Trong các cuộc đào xới tại Piprahwa vào những năm 1897-1898,W.C. Peppe và P.C. Mukherji khám phá ra một ngôi tháp chính dướiđộ sâu, tháp cao khoảng 6 mét (18 bộ Anh), có một cái phòngnhỏ bằng đá. Bên cạnh đó có thêm những di vật có giátrị, trong cái phòng nhỏ này có năm chiếc hòm, bốn cái bằngloại đá mềm và một cái bằng thủy tinh. Nấp của chiếchòm bằng đá nhỏ có chứa bia ký đọc được như sau: “Sukiti-bhatinamSabhaganakinan sa-puta-dalanam iyam salila-nidhane Buddhasa bhagavate Sakiyanam.”Được phiên dịch: “Tháp thờ xá lợi của Đức Thánh Phậtđược anh chị em cùng với các con trai và vợ của Sakya Sukitidâng cúng. Vào năm 1971, các nhà khảo cổ Ấn Độ đã đàoxới lại khu vực Piprahwa và đã khám phá một chiếc nắpnồi, có mang chứng tích bia ký. Theo K.M. Srivastava, một nhàkhảo cổ người Ấn, những dấu ấn bia ký của chiếc nắpnồi thiết lập chứng tích không nghi ngờ gì được là Piprahwađích thực là vị trí của kinh thành Ca Tỳ La Vệ cổ xưa,kinh đô của dòng tộc Thích Ca, nơi mà Đức Phật đã trảiqua thời niên thiếu. Tuy nhiên, những đào xới ở Tilaura Kotlại khám phá ra nhiều chứng tích hơn ở Piprahwa bên Ấn Độ.Người ta cũng tìm thấy nền tảng của kinh thành Ca Tỳ LaVệ cổ tại đây. Ngày nay, hầu hết các học giả đều tinrằng Tilaura Kot, chừng 30 cây số về phía Tây của vườnLâm Tỳ Ni bên phía Nepal mới đích thực là kinh thành Ca TỳLa Vệ cổ và Piprahwa, khoảng 15 cây số, về phía Nam củaLâm Tỳ Ni bên phía Ấn Độ là vị trí của thành Ca Tỳ LaVệ mới, được xây dựng sau khi kinh thành cũ bị vua TỳLưu Ly tàn phá—Kapilavastu was one time the capital of Sakya Kingdomwhere dwelt King Suddhodana and his wife Maya, located in the foothillsof the Himalayas. However, it was destroyed during Sakyamuni’s life,according to legend; about 100 miles due north of Benares, northwest ofpresent Gorakhpur. The capital of the country where Sakyamuni was bornat Lumbini Park on the outskirts of the city of Kapilavastu. Kapilavastuis the home town of Siddhartha Gautama, where spent his childhood and youthuntil his decision to pursue awakening. The Indian archeologists identifiedit with the present-day village of Tilaurakota in the Therai region ofmodern Nepal. However, according to Fa-Hsien in the Records of the BuddhistKingdoms: “The country of Kapilavastu is empty and deserted, scarcelypopulated and its roads are unsafe to travel for fear of white elephantsand lions. One cannot travel without taken proper precaution.” The identificationof the legendary Kapilavastu, where the Buddha spent 29 years of his earlylife before leaving his palace in quest of enlightenment, has been a matterof controversy for over hundred years. Tilaura Kot in Nepal and Piprahwain India have been the main claimants for the site of ancient Kapilavastu.In 1974, Indian government claimed that Piprahwa in district Basti of UttarPradesh is the real location of the legendary Kapilavastu, following thediscovery of important Buddhist relics, seals and inscriptions from theruins of stupa and monastery there. During the excavations at Piprahwain 1897-1898, W.C. Peppe and P.C. Mukherji discovered in the main stupaat a depth of about eighteen feet below the summit, a huge stone coffer.In addition to other valuable objects, the coffer contained five caskets,four of soapstone and one of crystal. The lid of a smaller soapstone casketcontained an inscription which was read as : “Sukiti-bhatinam Sabhaganakinansa-puta-dalanam iyam salila-nidhane Budhasa bhagavate Sakiyanam”. Theinscription has been translated into English as follows: “This relicshrine of divine Buddha is the donation of the Sakya Sukiti-brothers associatedwith their sisters, sons and wives.” In 1971, Indian archeologists startedfresh excavations at Piprahwa and discovered the lid of a pot, carryinginscriptional evidence. According to K.M. Srivastava, an Indian archeologist,the sealings and the lid of the pot had established beyond doubt that Piprahwais the ancient site of Kapilavastu, the capital of the Sakyas, and thescene of Buddha’s early life. However, excavations in Tilaura Kot discoveredmore evidence than that of Piprahwa in India. They also found the old foundationof ancient Kapilavastu Rampart. Nowadays, most scholars believe that TilauraKot, about 30 kilometers West of Lumbini, in Nepal was the site of oldKapilavastu and Piprahwa, about 15 kilometers, South of Lumbini, in Indiawas the site of new Kapilavastu established after the destruction of theold one by Vidudabha.
28)Kapittha (skt): Kiếp Tỉ Tha—Kiếp Tỳ Tha—Tăng Khư Thi, têncủa một vương quốc cổ trong vùng Trung Ấn, nằm bên sôngIksumati, gần xứ Ma Thâu La. Theo truyền thuyết Phật giáo,Đức Phật từ cung trời Đao Lợi giáng trần tại khu vựcnày. Theo ngài Huyền Trang trong Tây Vực Ký, có 4 tự việnvới trên 1.000 Tăng sĩ thuộc trường phái Chính Lượng Bộtrú trì tại đây. Bên trong bức tường của một tự việncó bậc tam cấp làm bằng thứ đá quí, tượng trưng cho sựgiáng trần của Đức Như Lai từ cung trời Đao Lợi. Trongxứ này cũng còn một trụ đá của vua A Dục—Name of an ancientkingdom of Central India, on the Iksumati river, near Mathura. Accordingto Buddhist legends, the Buddha descended here from Trayastrimsa heaven.According to Hsuan-Tsang in the Records of the Western Lands, there were4 monasteries with more than 1,000 monks of the Sammitiya school. Withinthe wall of one monastery there were triple stairs made of precious stones,symbolizing the descent of the Tathagata from the Trayastrimsa heaven.There was also an Asoka stone in the area.
29)Kapotaka-samgharama (skt): Ca Bố Đức Ca Già Lam—Cáp Viên—Mộttự viện nổi tiếng trong vùng Kashmir, phía nam xứ Ma KiệtĐà, trung Ấn Độ. Chùa Ca Bố Đức Ca (thời nhà Đườnggọi là chùa chim Bồ Câu). Chùa được mang tên nầy là vìtrong một thời xa xưa, Đức Phật từng thuyết pháp cho đạichúng trong một khu rừng. Khi Đức Phật đang thuyết pháp,có người thợ săn giăng bẫy bắt chim trong khu rừng, nhưngsuốt ngày chẳng được con nào. Anh ta bèn tới chỗ Phật,nói to rằng: “Hôm nay Như Lai thuyết pháp ở đây, làm tôikhông bẫy được con chim nào, vợ con tôi đến chết đóimất.” Phật bảo anh ta hãy đốt lửa lên rồi Ngài sẽ bancho thực phẩm. Khi ấy Đức Phật liền thị hiện làm thânchim bồ câu rồi lao mình vào lửa để làm thực phẩm chongười thợ săn và vợ con anh ta. Lần sau anh lại đến chỗĐức Phật đang thuyết pháp, đứng nghe Phật giảng và thấyhối hận, từ đó phát tâm xuất gia tu hành giác ngộ—A famousmonastery said to be in Kashmir, south of Magadha, central India. The monasterywas of the Sarvastivadah school, so called because the Buddha in a previousincarnation is said to have changed himself into a pigeon and to have thrownhimself into the fire in order to provide food for a hunter who was preventedfrom catching game because of Buddha’s teaching. When the hunter learnedof Buddha’s power, he repented and asked the Buddha to allow him to jointhe order. He later attained enlightenment.
30)Karakhojo (skt): Tên một vương quốc cổ ở Tây Vực có cổthành Cao Xương, khoảng 30 dậm về phía đông của Turfan thuộcTurkestan, xưa kia là một trung tâm Phật giáo quan trọng, từnơi đó nhiều vị cao Tăng đã mang kinh điển đến Trung quốcđể hoằng hóa. Vào trước thế kỷ thứ bảy người ta đãnghe nói tại đây có dân tộc Turks sinh sống trong khu vựcOrkhon đến khoảng năm 840 sau Tây Lịch, họ bị người Kirghizđánh đuổi nên chia làm hai nhóm; một nhóm đi đến Kansu vàsinh tồn đến khoảng năm 1020; còn nhóm kia tồn tại đếnthời kỳ đế quốc Mông Cổ. Họ có mẫu tự lấy từ mẫutự Soghdian mà về sau nầy Thành Cát Tư Hãn đã cho dùng nhưchữ viết chính thức của người Mông Cổ. Vào năm 1294 thìtoàn bộ giáo điển Phật giáo đã được phiên dịch ra chữUighur (theo sử liệu Trung Hoa, Hán Thư và Tân Cựu ĐườngThư,thì đây là đất cũ của Hiệu Úy Mậu Kỷ đờiHậu Hán và Tiền Bộ Xa Sư đời Hán, nay là vùng phụ cậnThổ Lổ Phồn, và Cáp Thích Hòa Trác, đông bắc sa mạc GôBi, thuộc tỉnh Tân Cương. Thời xưa Phật giáo rất thịnhhành ở đây. Những kinh điển bằng chữ Phạn và chữ Hánđều được xử dụng. Thời Bắc Lương xuất hiện nhữngthầy Pháp Thịnh, Pháp Chúng; thời Bắc Ngụy xuất hiện cácthầy Đàm Lộc và Uy Đức dịch Kinh Hiền Ngu; thời ĐôngTấn những thầy Trí Nghiêm, Trí Giản sang Tây Trúc, trên đườngsang Tây Trúc có ghé qua vùng nầy tìm lương thực đi đường.Về sau ngài Huyền Trang cũng dừng lại đây một tháng, đượcvua Cúc Văn Thái rất kính trọng)—The ancient town of Kao-Ch’ang,30 miles east of Turfan in Turkestan, formerly an important Buddhist centre,whence came scriptures and monks to China. The Turks in Karakhojo werefirst heard of in the seventh century in the Orkhon district where theyremained until840 A.D. when they were defeated and driven out bythe Kirghiz; one group went to Kansu, where they remained until about 1020A.D.; another group foundeda kingdom in the Turfan country whichsurvived until Mongol times. They had an alphabet which was copied fromthe Soghdian. Chingis Khan adopted it for writing Mongolian. In 1294 A.D.the whole Buddhist canon was translated into Uighur.
31)Karle (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng tây Ấn Độ. Sảnhđường Thánh điện ở Karle có kiểu dáng giống như sảnhđường ở Bhaja. Tuy nhiên, đây là một đền đài nguy ngatráng lệ nhất ở Ấn Độ. Thực vậy, trong một bản chữkhắc cổ tìm thấy tại đây, thì điện nầy được mô tảlà một lâu đài trong hang đá tuyệt hảo nhất ở Diêm PhùĐề. Hang nầy do Bhutapala, một thương nhân ở Vaijayanti, chođào. May mắn là điện nầy nằm trong số điện còn đượcduy trì tốt nhất. Điện có một hàng trụ đá nguyên khốiở mỗi bên, đầu trụ hình vuông, bên trên có những hìnhvoi, ngựa quỳ gối và người cưỡi nam nữ. Mặt tiền haitầng có một cửa hứng nắng thật lớn. Sảnh đường Thánhđiện nầy có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ nhất trướcTây Lịch—Name of a Buddhist place in west India. The caitya hall atKarle is of the same general pattern as that at Bhaja. However, it is oneof the most magnificent monuments in India. In fact, it is described, inone of the ancient inscriptions found at the place, as the most excellentrock mansion in Jambudvipa. It was excavated by Bhutapala, a merchant ofVaijayanti. Fortunately, it is also among the best preserved.Ithas a row of fifteen monolithic pillars on each side with kalasa basesand bell-shaped capital surmounted by kneeling elephants, and horses withmen and women riders. Its two-storeyed fafacade as an enormous sun-window.The caitya hall dates from the close of the first century B.C.
32)Karnatak (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng tây Ấn. Theo GiáoSư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, Phật giáo bắtđầu có ảnh hưởng tại Karnatak từ thời vua A Dục. Cácsắc chỉ của vị vua nầy tại Siddhapur và các vùng lân cậnđã được tìm thấy trong tỉnh nầy. Các đoàn truyền giáocủa ông ta phái đi khắp cả nước, kết quả là nhiều tuviện Phật giáo đã được xây dựng tại đây—Name of a Buddhistplace in west India. According to Prof. Bapat in the Twenty-Five HundredYears of Buddhism, Buddhism began to exercise its influence in Karnatakfrom the time of Asoka, whose edicts at Siddhapur and in the neighborhoodare found in the province. His missionaries carried the message all overthe land, as a result of which many Buddhist monasteries were built there.
33)Kartchou (skt): Kiệt Xoa—Một nơi trên núi Karakoram mà theo ngàiPháp Hiền, nơi đây các vương triều đã từng tổ chức nhữngcuộc cúng dường Trai Tăng hay những chúng hội thật vĩ đại.Theo Eitel trong trung Anh Phật Học Từ Điển, thì đây là vùngKhasa, nơi trú ngụ của một bộ tộc cổ Kasioi trong vùng Paropamisus;trong khi những học giả khác thì cho rằng đây có lẽ lànhững vùng bây giờ là Kashmir, Iskardu, hay Kartchou—A place saidto be in Karakoram mountains, where according to Fa-Hsien formerly greatassemblies were held under royal patronage and with royal treatment. Eitel,in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, gives it as Khasa,and says an ancient tribe on the Paropamisus, the Kasioi of Plotemy; othersgive different places, i.e. Kashmir, Iskardu, Kartchou.
34)Kashmir (skt): Ca Thấp Ba—Kế Tân—Vương quốc cổ Kế Tân,bây giờ là Kashmir, nằm về phía tây bắc Ấn Độ. Vùng đấtmà vua A Dục đã sáp nhập vào vương quốc của mình ngay saukhi ông lên ngôi. Đây là một trung tâm Phạn ngữ quan trọng,cũng là một trường học Phật giáo có uy thế thời đó.Kashmir giữ một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phậtgiáo sang Trung Quốc. Theo ngài Huyền Trang trong Tây Vực Ký,từ Tăng Ha Bổ La đến Ca Thấp Ba, ngài đã đi qua một vàitự viện tại đây, và tại Tịnh Xá Huskara ngài đã ở lưulại đêm. Ngài được vị vua của xứ này tiếp đón nồnghậu. Sau đó ngài quyết định lưu lại đây 2 năm để họckinh và luận. Nhà vua đã cung cấp cho ngài 20 thư ký để chépkinh tại đây. Sau lần kết tập kinh điển lần thứ ba tạithành Hoa Thị, một phái đoàn truyền giáo đã được pháiđến nơi này và ngài Huyền Trang đã thấy tại đây có trên100 ngôi tự viện với trên 5.000 Tăng sĩ. Cũng theo ngài HuyềnTrang thì một trong những biến cố trọng đại đã xảy ratại Ca Thấp Ba là cuộc nghị hội Kết Tập Kinh Điển lầnthứ tư, 400 năm sau ngày Phật nhập diệt, dưới sự bảotrợ của vua Ca Nị Sắc Ca. Đức vua cảm thấy bối rối vìnhiều lối giải thích khác nhau của các vị thầy khi ngàihọc kinh điển Phật giáo, và vì vậy ngài muốn rằng mụctiêu chánh của Đại Hội là phải ghi lại những giải thíchvề lời Phật dạy bởi các vị thầy của các tông phái khácnhau. Chính A La Hán Parsva (Ba Lật Thấp Phược) đã khuyên ngàinên triệu tập Nghị Hội tại đây. Cũng tại xứ này, ngàiHuyền Trang đã thấy ảnh tượng của Đức Quán Thế Âm BồTát và một tự viện của trường phái Đại Chúng Bộ—AncientKashmir kingdom, situated in the north-east of IndiaA region which Asokaadded to his empire right after he enthroned. Kashmir was one of the mostimportant centers of Buddhist Sanskrit learning and the center of the mostpowerful Buddhist school. Kashmir played an important role in the transmissionof Buddhism to China. According to Hsuan-Tsang in the Records of the WesternLands, on his way from Simhapura to Kashmir, he came across several monasteries,and at Huskara-Vihara he spent the night. He was welcomed by the king ofKashmir. He decided to stay there for 2 years to the study of the sutrasand sastras. The king provided him with 20 clerks to copy the manuscripts.After the Third Council at Pataliputra, a Buddhist missionary was senthere for propagation. When Hsuan-Tsang arrived here, he saw more than 100monasteries with over 5,000 monks. Also according to Hsuan-Tsang, one ofthe outstanding events that took place in Kashmir was the session of theFourth Buddhist Council under the auspices of King Kaniska in the 400 yearsafter the Buddha’s Mahaparinirvana. The king was puzzled by the differentinterpretations given by his spiritual teachers while he was studying theBuddhist texts, and so he wanted that the main object of this Council shouldbe to record the various interpretations given of Buddha’s words by theteachers of different sects. It was the Arhat Parsva’s advice that theEmperor decided to hold the Council. When he was in this country, Hsuan-Tsangsaw an image of Bodhisattva Avalokitesvara and a Mahasanghika monastery.
35)Kausambi (skt): Kosambi (skt)—Vatsapattana(p)—Câu La Cù Quốc—CâuDiêm Di Quốc—Câu Thiêm Di—Cự Thưởng Di—Kiều ThươngDi, tên của một đô thị thời cổ Ấn Độ, một xứ haymột thành phố cổ ở Trung Ấn Độ (từng do vua Ưu Điềncai trị), bây giờ là làng Kosam tại Jumna, khoảng 30 dậm bêntrên Allahabad. Vương quốc của vua Udayana với kinh đô nổitiếng được ghi lại trong Tây Vực Ký. Nơi có một hình tượngPhật thật lớn. Đây là một trong những thành phố cổ nhứtcủa Ấn Độ—A country or an ancient city in Central India, identifiedwith the village of Kosam on Jumna, 30 miles above Allahabad. The countryof King Udayana in “Central India” with a famous capital mentionedin the Vogage to the West. There was a great image of the Buddha. It wasone of the most ancient cities of India.
36)Khalcha: Cao Xương—Tên của một cổ thành trong một xứ toànlà núi non trong vùng Bắc Ấn, thuộc vương quốc Karakhojo.Xứ này tọa lạc về phía Đông của dãy Thống Lĩnh. Theongài Pháp Hiển trong các Vương quốc trong vùng Tây Vực, “Xứnày thời tiết rất lạnh, không trồng được ngũ cốc ngoạitrừ lúa mạch, thời tiết trở lạnh giá buốt rất bất thường.Ở giữa rặng núi Tuyết của xứ này trở đi, ngoại trừtre, lựu, và mía, còn thì những loại cây trái khác đềukhác biệt với Trung quốc. Cư dân trong vương quốc này mặcmột thứ vải thô như ở bên Trung quốc, nhưng nỉ và dạcủa họ thì khác.”—Name of an old citadel, located in a mountainouscountry in North India, belonged to Karakhojo Kingdom. It located in theEast of the Pamirs. Fa-Hsien reported in The Records of Western Kingdoms:“It’s so cold in the area that no cereals can grow here except wheat.The weather often turns frosty. The country is in the middle of the Pamirranges. From the Pamirs onwards, except bamboos, pomegranate and sugarcane,plants, trees and fruits are different from those in China. People in thiskingdom wear the same coarse cloth as in China, but their felt and sergecloths differ”
37)Khotan: Xứ Vu Điền—Tên của một vương quốc cổ nằm vềphía Tây Bắc Ấn Độ. Vào thời ngài Pháp Hiển du hành sangẤn Độ thì nước này rất giàu có và yên bình. Cư dân cóđời sống phồn thịnh và đều là tín đồ Phật giáo. Họrất hoan hỷ tu tập chánh pháp. Trong toàn xứ có 14 ngôi tựviện lớn, không kể những chùa nhỏ, đặc biệt là tự việnHoàng Gia mới được xây dựng. Có lẽ còn nhiều tự việntráng lệ hơn nữa, được nhà vua và dân sùng đạo xây dựng.Vào lúc đó trong toàn xứ, số lượng Tăng sĩ lên đến nhiềuvạn, đa số theo Phật giáo Đại thừa. Nhà cửa dân chúngtại đây phía trước đều có xây tháp, nhỏ nhất cũng caođến 20 tấc Anh—Name of an ancient kingdom, northwestern part ofIndia. At the time when Fa-Hsien traveled to India, the country was richand peaceful. Its inhabitants were prosperous and followers of the Dharma.They were so delightful in the practice of the Dharma. In the whole country,there were 14 large monasteries, not to speak of the smaller ones, specificallythe Royal Monastery was just built. Perhaps there were many more magnificientmonasteries built by faithful kings and devoted people. At that time, thenumber of Buddhist monks reached several ten thousand and the majorityof which followed Mahayana Buddhism. In front of lay people’s houses,there was always a small stupa, the smallest one was raised to a heightof 20 inches.
38)Kosala (skt): Kiều Tát La—Còn gọi là Câu Sa La, Câu Tát La,hay Cư Tát La.
a)Bắc Kiều Tát La—Uttarakosala (skt): Northern Kosala—Bắc KiềuTát La, tên của một vương quốc nằm về phía Bắc của sôngHằng, mà bây giờ là Benares. Một trong hai vương quốc quantrọng, cùng với vương quốc Ma Kiệt Đà quyết định sânkhấu chính trị trong những vùng mà Phật đã đi qua.Ngày nay vương quốc này thuộc vùng Oude (theo Truyện Pháp Hiển,Bắc Kiều Tát La là tên một vương quốc cổ ở miền TrungẤn, khác với nước Nam Kiều Tát La. Đây là một trong 16vương quốc lớn thời Đức Phật còn tại thế, thủ phủlà thành Xá Vệ, nơi Đức Phật đã lưu trú trong một thờikỳ dài)—Name of an ancient Indian kingdom situated to the north ofthe river Ganges, the modern Oude, and containingthe cities of Sravastiand Varanasi (present-day Benares). One of the two main kingdoms, togetherwith Magadha, determining the political scene in the areas covered by theBuddha in his travels.Its capital is Sravasti, where the Buddhaand his order stayed for a long period of time—See Xá Vệ Quốc.
b)Nam Kiều Tát La—Daksinakosala (skt): Vương quốc cổ mà bâygiờ thuộc về các tỉnh trung tâm Ấn Độ (theo Tây Vực Kýthì ngài Huyền Trang cho rằng vùng nầy là vùng Trung Ấn. TheoTruyện Pháp Hiển, đây là nước Đạt Thân hay Nam Kiều TátLa, để phân biệt với Bắc Kiều Tát La, còn gọi là ĐạiKiều Tát La. Đây là nơi mà ngài Long Thọ đã từng lưu trú,được vua Sa Đa Bà Ha rất kính trọng. Nhà vua đã cho xâymột ngôi chùa lớn năm tầng tại Bạt La Vị La. Vị trí thủphủ của nước nầy ngày nay chưa ai định rõ)—Southern Kosala,an ancient kingdom, also in Central India, part of the present CentralProvinces.
39)Kondane (skt): Một địa danh Phật giáo ở vùng tây Ấn Độ,cách Karjat khoảng bảy dặm. Các hang động ở Kondane có niênđại hơi muộn hơn các hang động ở Bhaja (see Bhaja). Các câycột ở mặt tiền bằng đá chớ không phải bằng gỗ. Đạisảnh Thánh điện thuộc loại xưa nhất, và là một bướcngoặt quan trọng trong sự phát triển của kiến trúc hang đá—Nameof a Buddhist place in west India, about seven miles from Karjat. The Buddhistcaves in Kondane are slightly of later date than those at Bhaja. The facadepillars are in stone instead of wood. The caitya hall is one of the earliestand is an important landmark in the development of rock-cut architecture.
40)Kukkutapada (skt): Kê Túc Sơn—Kukkutapadagiri (skt)—Còn gọi lànúi Lang Tích (dấu chó sói), hay Tôn Túc Sơn. Kê Túc Sơn, núiChân Gà, tên một ngọn núi ở Ma Kiệt Đà, vùng Trung Ấn,khoảng 16 dậm về phía Đông bắc Gaya, bây giờ là Kurkeihar,nơi tôn giả Ca Diếp nhập diệt ở xứ Ma Kiệt Đà, nhưngngười ta tin ngài hãy còn sống. Theo Eitel trong Trung Anh PhậtHọc Từ Điển, núi nầy nằm cách Gaya khoảng 7 dậm về phíađông nam nơi ngài Ca Diếp nhập Niết Bàn—Also called the Wolf-Track,or the Buddha’s Foot Mountain (Gurupada). co*ck’s foot mountain, inMagadha, present Kurkeihar, about 16 miles northeast of Gaya, Central India,on which Kasyapa entered into nirvana, but where he is still supposed tobe living. According to Eitel, in The Dictionary of Chinese-English BuddhistTerms, it is 7 miles south-east of Gaya, where Kasyapa entered into nirvana.
41)Magadha (skt): Xứ Ma Kiệt Đà—Ma Ha Đà—Ma Kiệt Đề—MaGià Đà—Ma kiệt đà, một trong 16 vương quốc cổ Ấn Độ.Vương quốc nầy nằm về phía Bắc Ấn độ, trong đó cótu viện Na Lan Đà và Bồ Đề Đạo Tràng, trải dài theo phíaNam bờ sông Hằng vào thời Phật, các kinh đô kế tục nhaucủa nó là Rajagriha và Pataliputra. Các triều vua trước vàsau thời Phật gồm Bimbisara, Ajatasattu, Asoka. Ma kiệt đà làcái nôi Phật giáo. Đây là một trong hai vương quốc (cùngvới vương quốc Kosala) quyết định khung cảnh chính trịvùng sông Hằng vào những thế kỷ trước thế kỷ thứ sáutrước Tây lịch. Đây cũng chính là nơi Đức Phật giác ngộsự thật và chuyển Pháp luân. Ma Kiệt Đà từng là một trungtâm Phật giáo thời cổ, nơi có nhiều tịnh xá gọi là Bahar.Thời Đức Phật còn tại thế, Ma Kiệt Đà là một vươngquốc hùng cường, dưới quyền cai trị của vua Tần Bà SaLa (khoảng từ năm 543-493 trước Tây Lịch), có kinh đô trongthành Vương Xá. Sau đó Ma Kiệt Đà dưới quyền của vua AXà Thế. Vua A Dục cũng đã từng ngự trị xứ nầy vào khoảngthế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Theo các nhà khảo cổ ẤnĐộ thì vương quốc cổ Ma Kiệt Đà bây giờ là Patna vàquận hạt Gaya, tiểu bang Bihar, thuộc miền đông bắc ẤnĐộ. Cả Nalanda và Gaya, thành Vương Xá, núi Linh Thứu, vàTrúc Lâm Tịnh xá đều nằm trong xứ Ma Kiệt Đà ngày xưa.Hiện nay trong xứ Ma Kiệt Đà vẫn còn một ngôi Tháp lớn.Tháp nằm trong xứ Ma Kiệt Đa, gần sông Ni Liên Thiền lànơi Phật thành đạo. Đây là một trong tám ngôi tháp thiênglớn của Phật giáo—Magadha, one of the sixteen kingdoms of ancientIndia during the Buddha’s time, located in north-eastern India. Nalandaand Buddha Gaya lay within this kingdom. This kingdomwas stretchingalong the southern bank of the Ganges at the time of the historical Buddha.Its capitals were Rajagriha and Pataliputra successively. Among the kingsof Magadha at the time of the Buddha were Bimbisara and his son Ajatasattu,and Asoka. Magadha was the country of origin of Buddhism. One of the twomain kingdoms (together with Kosala) determining the political scene inthe central Gangetic plain in the 6th century BC. It was in Magadha thatthe Buddha realized the truth and first turned the Dharma wheel. Magadhawas one time the headquarters of ancient Buddhism, covered with viharasand therefore called Bahar. Magadha was the most powerful kingdom, ruledby the king Bimbisara (543-493 B.C.) with its capital in Rajagaha. Later,Magadha was ruled by Ajatasatru (son of Bimbisara). King Asoka of Mauryadynasty also ruled this kingdom in the third century B.C. According tothe Indian archeologists, the old country of Magadha is now in the modernPatna and Gaya district of Bihar state in the northeast India. Both Nalandaand Buddha Gaya,Rajagriha, Vulture Peak and the Bamboo Grove Monasterylay within this kingdom. At the present time, there exists a big stupain Magadha. The stupa is located in Magadha, where the Buddha first enlightened.This is one of the eight Great Spiritual or Sacred Stupas of Buddhism.
42)Mathura (skt): Ma Thâu La—Mạt Thố La—Madhura (skt)—Ma ĐộLa—Ma Đột La—Ma Đầu La—Một vương quốc cổ (tên hiệnđại là Muttra) nằm bên bờ sông Jumna, một trong bảy Thánhthành, gọi là Khổng Tước Thành, nổi tiếng với những tháptrong thành. Thành phố này nằm bên hữu ngạn sông Yamuna bâygiờ là bang Uttar-Pradesh, bắc Ấn Độ. Từ năm 150 đến 250sau Tây lịch, Ma Thầu ra trở thành một trung tâm văn hóa vànghệ thuật Phật giáo. Ma Thâu La một thời là một thànhphố nổi tiếng và kinh đô của một vương quốc rộng lớn.Nó bao gồm vùng đất bây giờ là những khu vực thuộc MaThâu La với những bang nhỏ của vùng Bharatpur, Khiraoli and Dholpur.Đây là một trong bảy Thánh thành, gọi là Khổng Tước Thành,nổi tiếng với những tháp trong thành. Theo ngài Pháp Hiểntrong Tây Vực Ký, có hơn 30 ngôi tự viện với hơn 3.000 Tăngsĩ, 4 tháp của chư Phật quá khứ, các tháp cho Xá Lợi Phất,Mục Kiền Liên,Phú Lâu Na, Ưu Ba Li, A Nan Đà, và La HầuLa, và một đồi đất đặt tên của Tổ Ưu Ba Cúc Đa. Vịtrí của tự viện Ưu Ba Cúc Đa nằm trên đồi Rurumunda. Tựviện được xây bởi hai anh em Nata và Bhata, vì vậy mà nócó tên là Nata-Bhata Tịnh Xá. Về sau này theo ngài Huyền Trangtrong Đại Đường Tây Vực Ký, vào thời đó tại đây chỉcòn 20 ngôi tự viện cho chư Tăng Đại thừa lẫn Tiểu thừa—Anancient kingdom and city, the modern Muttra on the bank of Jumna; the reputedbirthplace of Krsna, one of the seven sacred cities, called Peaco*ck City(Krsna-pura) famous for its stupas. This city is on the right bank of theYamuna (Jumna) in present-day Uttar-Pradesh (north India). From 150 till250 AD, Muthara was a center of Buddhist art and culture. Mathura was oncethe famous city and the capital of a large kingdom. It included the presentdistricts of Mathura with the small states of Bharatpur, Khiraoli and Dholpur.This is one of the seven sacred cities, called Peaco*ck City (Krsna-pura)famous for its stupas. According to Fa-Hsien in the records of the Buddhistkingdoms, there were more than 30 monasteries with 3,000 monks, 4 stupasof past Buddhas, and one stupa each for Sariputra, Mudgalaputra, PurnaMaitrayaniputra, Upali, Ananda and Rahula, and one hill-mound of Upagupta.The site of Upagupta monastery was Uru or Rurumunda hill. The monasterywas built by two brothers. Nata and Bhata, which is, why it was calledNata-Bhata Vihara. But later, according to Hsuan-Tsang in the Records ofthe Western Lands, at the time he visited Mathura, there were only 20 monasterieswith 200 monks for both Mahayana and Hinayana monks.
43)Mucalinda Lake: Muchilinda (skt)—Một cái hồ nổi tiếng ở BồĐề Đạo Tràng, khoảng 2 cây số về phía Nam của hồ HoaSen, nơi Đức Phật đã trải qua tuần lễ thứ sáu sau khiNgài đạt được đại giác. Trong khi Đức Phật đang tọathiền gần hồ thì một cơn giông tố lớn xãy ra. Thấy ĐứcPhật bị ướt, Long vương của hồ là “Calinda” xuất hiệnbao bọc quanh Đức Phật và đầu phùng ra bên trên Đức Phật—Afamous lake at Bodhgaya, about 2 kilometers south to the Lotus Tank, ispointed out the spot where the Buddha spent the sixth week. While the Buddhawas meditating near the lake, there broke out a severe thunder storm. Seeingthat the Buddha was getting drenched and Naga king of the lake called “Calinda”came out from his abode and encircling the body of the Buddha, held hishood over him.
44)Nagarahara (skt): Nagara (skt)—Kinh thành Na càn ha la—Na Yết LaHát La—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, đây làtên của một vương quốc cổ, nằm trên bờ nam sông Cabool,khoảng 30 dặm về phía Tây của Jellalabad. Trong khi theo giáosư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, thì đây làđịa danh Phật giáo ở vùng nam Ấn Độ. Nó nằm ngay chỗhợp lưu của các sông Surkhar of Surkh-rud và Kabul. Theo GiáoSư Bapat trongNagapattam ở gần Madras trên bờ biển phíađông, đã có hoạt động Phật giáo từ thời đại Chola.Một bản khắc chữ quan trọng trên phiến đồng của thếkỷ 11 cho biết rằng vua Chola là Rajaraja, đã ban cấp làngAnaimangalam dùng để bảo dưỡng cho một ngôi đền Phật giáotrong tu viện Culamanivarama do vua Sailendra, Maravijayottung Varmancủa Sri-vijaya và Kataha của Nam Dương dựng lên tại Nagapattam.Trong phần cuối của luận giải của mình về bộ Nettipakarana,ngài Hộ Pháp (Dharmapala) đã có nói đến địa điểm nầyvà tu viện Dharmasoka trong đó, nơi mà ông đã viết cuốn luậngiải—According to The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms,this is the name of an ancient kingdom on the southern bank of the CaboolRiver, about 30 miles west of Jellalabad. It’s situated at the confluenceof the Surkhar of Surkh-rud and Kabul rivers. While According to Prof.Bapat in the Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, this is the name ofa Buddhist place in southern India. Nagapattam, near Madras on the EastCoast, had a Buddhist settlement in the time of the Cholas. An importantcopper-plate inscription of the eleventh century A.D. states that the CholaKing, Rajraja, gave the village of Anaimangalam for the maintenanceof a shrine of the Buddha in the Culamannivarama Vihara which the Sailendraking, Maravijayottung Varman of Sri-vijaya and Kataha of Indonesia, haderected at Nagapattam. In the epilogue of his commentary on the Netti-pakarana,Dharmapala mentions this place and Dharmasoka Vihara in it, where he composedthis commentary.
45)Nagarjunakonda (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng Nam Ấn Độ.Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, ngườita không được biết gì về ngôi tháp lớn ở Nagarjunakondahay đồi Nagarjunakonda cho đến khi tháp nầy được phát hiệnvào năm 1934. Tháp nằm trên mạn phía nam của sông Krishna trongquận Guntur. Đây cũng là một đại tháp vì có cất giữ dihài của Đức Phật, và có lẽ được xây vào thời vua ADục. Tháp được tân tạo và xây cất bổ sung bởi Santisiricùng các mệnh phụ khác trong hoàng tộc. Những người nầyđược xem là đã có công giúpcho Phật giáo phát triểntại Andhra trong thế kỷ thứ 3. Tháp nầy ngày nay tuy đã đổnát nhưng trông còn đồ sộ hơntháp ở Amaravati. Hàngtrăm công trình điêu khắc thực hiện theo phong cách Amaravatiđã được tìm thấy tại đây. Qua các dòng chữ khắc trêncác cây trụ Ayaga, người ta thấy rõ rằng Nagarjunakonda, thànhphố cổ của Vijayapuri, có tầm quan trọng to lớn của mộttrung tâm Phật giáo đã có danh tiếng quốc tế. Nhiều tu việnđã được xây cất tại nơi nầy để làm nơi trú ngụ chotu sĩ Phật giáo thuộc các tông phái kháctừ nhiều nướcđến như Tích Lan, Kashmir, Gandhara, Trung Hoa, vân vân. Ngườidân Andhra giao thương với cả trong nước và nước ngoài,họ đã có sự tiếp xúc sâu xa với xã hội La Mã thời ấy.Điều nầy được chứng minh qua sự phát hiện những bảnkhắcvà công trình điêu khắc mô tả một chàng línhrâu ria mặc áo chẽn, quần tây, và nhiều vật dụng kháccó nguồn gốc từ La Mã. Tại Andhra, các nơi như Guntapali,cách ga xe lửa Ellore chừng 28 dặm, và Sankaram, cách Anakapallimột dặm về phía Đông, là những địa điểm nổi tiếngvì các công trình kiến trúc trong đá. Các địa điểm kháctrong vùng lân cận cũng được xem là có tầm quan trọng trongthời đại của Phật giáo, điều nầy được xác nhận quasự hiện diện của các ngôi tháp cùng các di tích cổ tạiđây.Các địa điểm đáng chú ý nhất trong số nầy là Goli, Chezarta,Gummatia, Bezwada, Garikapadu, Uraiyur, Kuvain, Chinve và Vidyadharpur—Nameof a Buddhist place in the Southern India. According to Prof. Bapat inthe Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, nothing was known of this greatstupa of Nagarjunakonda or the Hill of Nagarjunakonda before it was discoveredin 1934. It is situated on the south bank of the river Krishna in the Gunturdistrict. It was also a mahastupa, enshrining the mortal remains of theBuddha, and was probably built in the time of Asoka. It was renovated withadditions by Santisiri and other ladies of the local Iksvaku royal family,to whom goes the credit of making Buddhism popular in Andhra in the thirdcentury A.D. Now it is in ruins which are greater than those at Amaravati.Hundreds of remarkable sculptures executed in the Amaravati style havebeen found. From the inscriptions on the Ayapa pillars, it is evident thatNagarjunakonda the ancient city of Vijayapuri, was of great importanceas a centre of Buddhism and enjoyed international fame. Several monasterieswere buitl at this place for the residence of Buddhist monks of differentschools coming from different countries like Ceylon, Kashmir, Gandhara,and China, etc. The people of Andhra traded in and outside the countryand had close contacts with the Roman world of the time. This is provedby the discovery of inscriptions, of sculptures depicting a bearded soldierwearing a tunic, and trousers, and of various other objects of Roman origin.In Andhra, Guntapalli, about 28 miles of Ellore railway station, and Sankaram,a mile east of Anakapalli, are important for their rock-cut architecture.Other places in the neighborhood appear to have assumed significance inBuddhist times, as the presence of stupas and other antiquities testifies.The most notable among these are Goli, Chezarta, Gummatia, Bezwada, Garikapadu,Uraiyur, Kuvain, Che and Vidyadharpur.
46)Nairanjana (skt): Sông Ni Liên Thiền—Neranjara (p)—Ni Liên ThiềnNa—Tên của con sông Ni Liên Thiền, một phụ lưu về hướngĐông của sông Phalgu. Bây giờ dân Ấn Độ gọi là sông Lilajanavới nước trong xanh, tinh khiết và mát mẻ. Dòng sông phátxuất gần vùng Simeria, trong quận Hazaribad, miền trung tiểubang Bihar, thuộc vùng đông bắc Ấn Độ. Nơi mà nhà tu khổhạnh Sĩ Đạt Đa đã thăm viếng và tắm sau khi Ngài từ bỏlối tu khổ hạnh. Trên bờ sông Ni Liên có khu rừng Sa La,nơi Đức Phật đã nghỉ ngơi vào buổi chiều trước khi Ngàilên ngồi thiền định 49 ngày dưới cội Bồ Đề và thànhđạo tại Bồ Đề Đạo Tràng, cách một khoảng ngắn vềphía tây sông Ni Liên—The name of a river Nairanjana (Nilajan) thatflows past Gaya, an eastern tributary of the Phalgu, during the Buddha’stime. It is now called by Indian people the Phalgu or Lilajana river withits clear, blue, pure and cold water. The river has its source near theSimeria region in the district of Hazaribad in the central Bihar stateof the northeast India. This river was visited and bathed by Siddartthaafter he gave up his ascetic practices. There was a Sala grove on the bankswhere the Buddha spent the afternoon before the night of his enlightenmentafter sitting meditation forty-nine days under the Bodhi-Tree, locatedin the present-day Buddha-Gaya village which is situated at a short distanceto the west of this river.
(SôngNi Liên Thiền khô cạn
Adried Nairanjana)
47)Nalanda Monastery University: Khu Đại Học Na Lan Đà—Phế tíchcủa khu trường Đại Học Na Lan Đà nổi tiếng khắp thếgiới, nằm trong một ngôi làng tên ‘Bada Gaon’, về phíaĐông Nam thủ phủ Patna (ngày xưa là thành Hoa Thị) của bangBihar, thuộc vùng Đông Bắc Ấn Độ. Na Lan Đà là một trongnhững trung tâm Phật Học lớn nhất trong thời cổ Ấn Độ,theo truyền thuyết Phật giáo, được vua Sakraditya của xứMa Kiệt Đà thiết lập trong tỉnh Bihar vào khoảng thế kỷthứ hai. Dù theo truyền thống thì Na Lan Đà có từ thời ĐứcPhật, vào khoảng thế kỷ thứ 5 hay thứ 6 trước Tây Lịch,tuy nhiên, các phế tích được các nhà khảo cổ đào lêncho thấy nền tảng Na Lan Đà được xây dựng vào khoảngthế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Có lẽ nó được đặt tên theomột vị thần của địa phương và khởi thủy chỉ là mộthọc viện nhỏ, nhưng bắt đầu từ thời vua Cưu Ma La CúcĐa đệ nhất tu viện bắt đầu nhận được sự bảo trợcủa hoàng gia từ những nhà cai trị Gupta của miền Bắc ẤnĐộ. Trong thời vàng son tu viện này đã thu hút vài học giảvĩ đại của trường phái Đại Thừa ở Ấn Độ, cả thầylẫn trò, và những nhà hành hương du hành từ thế giới Phậtgiáo đến đó để tu học, và sau này nó trở thành nguồntruyền giáo chính của đạo Phật từ Ấn Độ sang Tây Tạng.Thành Na lan đà, một tu viện, trung tâm nghiên cứu. Sau đượctriển khai thành trường Đại học Phật giáo đầu tiên tạiBắc Ấn Độ. Tại đây có một thư viện phong phú. ChínhHuyền Trang và Nghĩa Tịnh, hai nhà sư thỉnh kinh nổi tiếngcủa Trung Quốc đã tới đó nhiều lần và đã ghi lại lànơi nầy đã từng chứa đến 10.000 học Tăng cho cả Tiểulẫn Đại thừa, với trên 2.000 giáo thọ. Trường Đại HọcNa Lan Đà phồn thịnh trong khoảng bảy thế kỷ từ thế kỷthứ 5 đến thề kỷ thứ 12. Tuy nhiên, Nalanda bị người Hồigiáo phá hủy vào thế kỷ thứ XII hay XIII. Các cơ sở tu việnlừng danh tại Na Lan Đà trong thành Vương Xá có tầm quan trọngrất lớn trong lịch sử Phật giáo thời gian sau nầy. Lịchsử của các kiến trúc tại đâycó thể bắt đầu từđời vua A Dục (Asoka).
(Entranceto the Ruin of Nalanda
Cổngvào khu phế tích Na Lan Đà)
Theruins of Nalanda University are famous to the whole world, located in avillage called ‘Bada Gaon’, Southeast of Patna (used to be Pataliputra)in Bihar State, Northeast of India. One of the greatest centers of Buddhistlearning in ancient India, founded in Bihar some time around the secondcentury by King Sakraditya of Magadha. Though it is traditionally datedto the time of the Buddha (6th-5th centuries B.C.), however, archaeologicalexcavations date its current foundations to the 5th century A.D. It wasprobablly name after a local spirit and was originally a small institution,but beginning with Kumara Gupta I (414-455) it began to receive royal supportfrom the Hupta rulers of North India. In its heyday, it attracted someof the greatest scholars of Mahayana Buddhism in India, both as teachersand students, and pilgrims from all over the Buddhist world traveled thereto study, and it later became one of the principal sources for the transmissionof Buddhism to Tibet. It then developed into a university located in nowNorth India. There was a great library there. According to Hsuan-tsangand I-Ching, who visited Nalanda on various occasions, stated that at theheight of its activity, 10 thousand monks were resident there and studiedthe teaching of Hinayana and Mahayana, with more than 2,000 teachers. Theuniversity flourished for seven centuries from the 5th to the 12th century.However, Nalanda is thought have been destroyed by Muslims in the 12thor 13th century. The famous monastic establishments at Nalanda, near Rajgir,were of extreme importance in the history of latter day Buddhism. The historyof the monastic establishments can be traced back to the days of Asoka.
TheoEitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Na Lan Đà là ngôichùa nổi tiếng, nơi mà ngài Huyền Trang từng tòng học, trườngkhoảng 7 dặm về phía bắc thành Vương Xá của xứ Ma KiệtĐà,miền bắc Ấn Độ, được vua Thước Ca La A Dật Đa (Sakraditya)xây dựng sau khi Phật nhập diệt. Bây giờ là Baragong. Na LanĐà được xem như là một trung tâm nghiên cứu Phật giáo,đặc biệt là về triết lý Trung Quán. Na Lan Đà cực thịnhvào khoảng từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 12. Sau đóNa Lan Đà được các vua cuối triều Gupta mở mang rộng lớn.Kỳ thật Na Lan Đà là một trường Đại Học Phật Giáo,nơi những cao Tăng tòng học tu tập để mở mang kiến thứcvề Phật giáo. Các di tích của tu viện Na Lan Đàtrảira trên một vùng rộng lớn. Các công trình xây dựng đượcthấy hôm nay chỉ là một phần của cơ ngơi đồ sộ và làdấu tích của các tu viện, đền, tháp. Các công trình kiếntrúc chạy theo hướng bắc nam, các tu viện nằm bên sườnđông, còn các đền tháp nằm bên sườn tây. Qua phế tích,chúng ta thấy những tu viện được xây nhiều tầng và ngaytrong những đổ nát ngày nay, chúng vẫn còn gợi lên cho chúngta sự hoài niệm về một quá khứ đường bệ và vinh quang.Trong viện bảo tàng hiện còn trưng bày nhiều tác phẩm điêukhắc cùng các cổ vật khác tìm được trong các cuộc khaiquật. Ngoài ra, còn nhiều di sản khác như các lá đồng, cácbia ký bằng đá, chữ khắc trên gạch và các con dấu bằngđất nung. Trong số các con dấu, chúng ta có con dấu thuộccộng đồng tu sĩ khả kính của Đại Tu Viện. Những chứngliệu cho thấy Phật giáo hành trì tại Na Lan Đà cùng cáctu viện đương thời tại Bengal và Bihar không phải là Phậtgiáo Tiểu Thừa đơn thuần, cũng không phải Đại Thừa thờikhởi thủy, mà nó thâm nhiễm các tư tưởng Bà La Môn vàMật tông. Huyền Trang, một cao Tăng Trung Quốc, đã du hànhsang Ấn Độ vào thế kỷ thứ bảy, đã kể lại về sựđồ sộ và phồn thịnh của Na Lan Đà. Theo ông thì tu việnnầy đã có lần có đến 10.000 vị sư Đại Thừa đến tutập tại đây. Ông đã nói rất rõ về các giới điều vàsự hành trì của chư Tăng tại đây. Ông còn nhắc đến vuaHarsa và các vị tiền nhiệm như những nhà bảo trợ đắclực cho tu viện nầy. Nghĩa Tịnh, một nhà hành hương kháccủa Trung Hoa, cũng đã để lại cho chúng ta một bản mô tảcuộc sống của các tu sĩ tại Nalanda, tu viện nầy đượcduy trì bằng số tiền thu được từ 200 ngôi làng đượccác đời vua ban cấp cho tu viện. Vào thời ấy, Na Lan Đànổi tiếng trong thế giới Phật giáo vì có những giáo sưtài giỏi, uyên bác và những tên tuổi như Giới Hiền (Silabhadra),Tịch Hộ (Santaraksita), A Để Sa (Atisa), hay Dipankara, nhữngngôi sao sáng đã gợi lên hình ảnh cao trọng của tu việntrong suốt thời kỳ phồn thịnh của nó—According to Eitelin The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Nalanda is a famousmonastery which was located 7 miles north of Rajarha in Maghada, northernIndia, built by the King Sakraditya after the Buddha’s nirvana. Now Baragong.As a center of Buddhist study, particularly of Madhyamika philosophy. Itprospered from the fifth through the twelfth centuries. Thereafter, themonastery was enlarged by the kings of the late Gupta period. The NalandaMonastery was in reality a Buddhist university, where many learned monkscame to further their study of Buddhism. The ruins of Nalanda extend overa large area. The structures exposed to view represent only a part of theextensive establishment and consist of monastic sites, stupa sites, andtemple sites. Lengthwise they extend from north to south, the monasterieson the eastern flank, and stupas and temples on the west.Throughthe ruins, we can see the evidence that these monasteries were storeyedstructures; and even in their ruins, they still convey a memory of theirimposing and glorious past. In the museum are deposited numerous sculpturesand other antiquities recovered during the excavations. Besides, thereare a lot of epigraphic materials, including copper-plate and stone inscriptions,and inscriptions on bricks, and terracotta seals. Among the seals, we havethe official seal belonging to the community of venerable monks of thegreat monastery. Through these materials, we can see that the Buddhismthat was practised at Nalanda and other contemporary institutions in Bengaland Bihar was neither the simple Hinayana, nor Mahayana of the early days.It was strongly influenced by the Brahmanism and Tantrism.Hsuan-Tsang,a famous Chinese monk, who traveled to India in the seventh century, wroteof the imposing structure and prosperity of this monastery. According toHsuan-Tsang, at one time, there were more than 10,000 Mahayana Buddhistmonks stayed there to study. He stated very clearly about their rules andpractices. He also mentioned Harsa and several of his predecessors as beneficentpatrons of this institution. I-Ching, another Chinese traveller, had alsoleft us a picture of the life led by Nalanda monks. According to I-Ching,Nalanda was maintained by 200 villages which donated by different kings.Nalanda was known throughout the Buddhist world of that time for its learnedand versatile teachers, and the names of Acarya Silabhadra, Santaraksita,and Atisa or Dipankara, were shining starsamong a galaxy of manyothers, conjure up a vision of the supreme eminence of the Nalanda Mahaviharathroughout its prosperous history.
(Ruinsof Nalanda University
Phếtích trường Đại Học Na-Lan-Đà)
48)Nasik (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng tây Ấn Độ. Theo Giáosư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, Nasik có mộtnhóm 23 hang động có từ niên đại thứ nhất trước TâyLịch cho đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch. Một số hangnầy đã được các tu sĩ Phật Giáo Đại Thừatrongthế kỷ thứ 6 và 7 sửa đổilại. Hang số 3, còn gọilà điện Gautamiputra, rộng lớn và có sáu cây thạch trụvới những hình chạmvoi, ngựa, bò đực trên đầu trụ.Hang số 10 gọi là điện Nahapana. Những hang động ở Nasikđặc biệt quan trọng vì những bản chữ khắc lý thú vàxinh đẹp của các triều đại Nahapana, Gautamiputra và Sri YajnaSatakarni—Name of a Buddhist place in west India. According to Prof.Bapat in the Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, there are twenty-threecaves in Nasik, dating from the first century B.C. to the secon centuryA.D. Some of these were altered and adapted by the Mahayana Buddhists betweenthe sixth and the seventh century A.D. Cave number three, called GautamiputraVihara, is large, having six pillars with carvings of elephants, bulls,and horses on the capital. Cave number 10 is called the Nahapana Vihara.The Nasik caves are especially important for the interesting and beautifulinscriptions of Nahapana, Gautamiputra and Sri Yajna Satakarni.
49)Pataliputra: Kusumapura (skt)—Hoa Thị Thành—Ba Liên Phất—Mộtthành phố cổ của Ấn Độ, tương ứng với bây giờ làPatna, nguyên thủy là thành Kusumapura. Kinh đô của triều đạiMauryan, nằm về phía Nam của xứ Ma Kiệt Đà, Bản địa củaVô Ưu Vương hay A Dục Vương thuộc xứ Ma Kiệt Đà. Vào thờithành Ba Liên Phất còn dưới quyền cai trị của vua A Dục,trong thành ông ra lệnh cho nhóm phi nhân xây cung điện và chấtnhững tảng đá làm tường. Những chạm trổ và điêu khắckhông phải là những trước tác của thế gian này. Phế tíchnhững nơi này đến này vẫn còn. Trong toàn thể vương quốcTrung Thổ (Ấn Độ) thì thành Ba Liên Phất là thành phố lớnnhất. Đây cũng là nơi kiết tập kinh điển lần thứ ba vàokhoảng năm 250 trước Tây lịch và được chủ trì bởi MoggaliputtaTissa. 1.000 vị Tăng đã được triệu tập về tham dự nghịhội để bàn thảo những lý thuyết khác nhau đã được pháttriển từ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Nhữngquan điểm này về sau được sưu tập trong một Luận Tạngcó chủ đề “Những Điểm Tranh Luận.” Quan điểm củatrường phái Vibhajyavada, mà một vị hùng biện của trườngphái Theravada đã tuyên bố là chính thống. Theo Tây Vực Kýcủa ngài Pháp Hiển, chỉ có một ngôi tự viện Đại thừatại đây mà thôi, nhưng không nói thêm chi tiết nào về sựphát triển của Phật giáo Đại thừa tại đây—An anccientIndian city corresponding to modern-day Patna, originally Kusumapura. Itwas the capital of Magadha kingdom of the Mauryan dynasty, it located inthe southern part of Magadha. This was the residence of Asoka, to whomthe title of Kusuma is applied. At the time Pataliputra was ruled by kingAsoka. In the city he ordered the genie to build the royal palace and pilerocks to make walls. The carving and sculptures were not of this world.Now their ruins can still be seen. This is the largest city of the wholeMiddle Kingdom. The was also the site of the third Buddhist Council (convokedby King Asoka), occurred some time around250 B.C., and was headedby the monk named Moggaliputta Tissa. A thousand monks were convened atthe council to debate varioustheories that had developed since thedeath of Sakyamuni Buddha. These view points were later collected in anAbhidharma text entitled Points of Controversy (Kathavatthu). The viewsof the Vibhajyavada sect, a precursor of Theravada, were reportedly declaredto be orthodox. According to the Records of the Buddhist Kingdoms, Fa-Hsienmentioned that there was a magnificient Mahayana Monastery at Pataliputra,but did not give any details about the development of Mahayana Buddhismhere.
50)Pragbodhi (skt): Bát La Cấp Bồ Đề—Tiền Chánh Giác Sơn—Tênnúi nơi mà Đức Phật đã lên đây trước khi ngài đạt đượcgiác ngộ Bồ Đề, thuộc vùng phụ cận sông Ni Liên Thiềnthuộc xứ Ma Kiệt Đà. Trong Tây Vực Ký, ngài Huyền Trangcho rằng trước khi Đức Như Lai chứng được Chánh Giác,ngài đã trèo lên núi nầy, cho nên nó có tên là Tiền ChánhGiác Sơn—A mountain in Magadha, which sakyamuni ascended “beforeentering upon Bodhi” near Magadha. According to The Great T’ang Chroniclesof the Western World, Hsuan-Tsang reported that Sakyamuni might have beenascended on this mountain before his enlightenment, hence its name.
51)Punach: Bán Nô Ta—Tên của một vương quốc cổ, tọa lạckhoảng 120 dậm về phía đông bắc Kashmir (Ba Thấp Ca). Vàothế kỷ thứ 7 thì xứ này vẫn còn trực thuộc Kashmir (CaThấp Ba). Trong Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang đã ghi nhận có5 ngôi tự viện tại đây, tất cả đã hoang tàn. Trong mộttự viện chỉ còn lại vài Tăng sĩ mà thôi, nhưng ngài khôngnói các vị này thuộc trường phái nào—Name of an ancient kingdom,situated about 120 miles northwest of Kashmir. In the seventh century itwas still subject to Kashmir. According to the Records of the Western Lands,Hsuan-Tsang noticed that there were 5 monasteries in ruins. In one monasterythere were only a few monks, but he did not mention the tradition of thesemonks.
52)Rajapura: Yết Xà Bổ La—Tên của một thành phố cổ, tọalạc khoảng 67 dặm về phía Đông Nam xứ Ca Thấp Ba (Kashmir),bây giờ là Rajaori nằm về phía đông nam Kashmir. Theo ngàiHuyền Trang trong Tây Vực Ký, có khoảng 10 ngôi tự viện trongthành phố này, nhưng ngài không nói gì đến trường pháicủa các ngôi tự viện này—Name of an ancient city, situated 67miles south-east of Kashmir, now Rajaori. According to Hsuan-Tsang in theRecords of the Western Lands, there were about 10 monasteries in this city,but he did not mention the tradition of these monasteries.
53)Rajagaha (skt): Thành Vương Xá—Rajagrha (skt)—Rajagaha (p)—Kinhđô của vương quốc Ma Kiệt Đà, một vương quốc cổ ẤnĐộ, trong thời Đức Phật còn tại thế, bây giờ là thànhphố Rajgir trong tiểu bang Bihar, vùng đông bắc Ấn Độ, nơiĐức Phật thành đạo, cũng là nơi kết tập kinh điển đầutiên trong Phật giáo. Vương Xá là một trung tâm tu viện Phậtgiáo quan trọng, và người ta tường thuật Đức Phật đãnhiều lần trải qua các mùa an cư kiết hạ tại đây. ThànhVương Xá vào thời của vua Bình Sa Vương là một thung lũngđược bao bọc bởi năm ngọn đồi. Năm ngọn đồi này chạyvòng quanh thành như những bức tường thành. Cổ thành khoảngmột dặm từ Tây sang Đông và khoảng một dặm rưởi từNam lên Bắc. Vương Xá cũng là địa điểm có một số tựviện Phật giáo quan trọng, kể cả cơ sở đầu tiên cho chưTăng là khu Trúc Lâm Tịnh Xá. Theo truyền thống Phật giáo,đây còn là địa điểm của Đại Hội Kết Tập Kinh Điểnlần thứ nhất, triệu tập chỉ một thời gian ngắn sau khiĐức Phật nhập diệt. Nghị hội này được vua Bình Sa Vươngbảo trợ, người đã đề cử A La Hán Ca Diếp chủ trì nghịhội. Chủ đích chính của đại hội kết tập kinh điểnlà hội họp chư Tăng đương thời lại để giải quyết KinhTạng và Luật Tạng, và tới cuối đại hội thì 500 vị ALa Hán, những vị có mặt khi Đức Phật thuyết giảng đãhội họp tại thành Vương Xá để kể lại những gì mà họđã nghe. Ưu Ba Li được xem như là chuyên gia về giới luậttự viện, đã trùng tuyên Luật Tạng; và A Nan đà, vị thịgiả của Đức Phật đã có mặt trong tất cả những buổigiảng thuyết của Phật, đã trùng tuyên Kinh Tạng. Vào lúckết thúc đại hội, Tạng Kinh và Luật được công bố làhoàn tất. Người ta kể lại là vua Bình Sa Vương đã di chuyểnkinh đô xa về hướng đông vì hỏa tai cũng như các thiêntai khác. Thành Vương Xá được bao bọc chung quanh bởi nămngọn núi, trong đó núi Linh Thứu là nổi tiếng nhứt. VươngXá là kinh thành từ thời Vua Bình Sa Vương đến A Dục. Cácdi tích của thành phố cổ không còn nhiều. Nơi nầy có vẻnhư đã chịu nhiều tàn phá của thời gian. Những phế tíchcủa nó vẫn còn rãi rác tại làng Rajgir, khoảng 16 dậm NamTây Nam khu thị trấn Bihar. Những phế tích nầy cho thấy rằngđã có nhiều tín đồ của các tôn giáo khác nhau sinh sốngtại đây. Các di tích Phật giáo, ngoại trừ rất ít ỏi tượngcòn lại rải rác,và không phải không thể thấy rằng cáccông trình kiến trúc tại đây đã bị cướp phá một phầndo bởi sự hận thù tôn giáo. Thậm chí việc xác định hangSattapanni, nơi tổ chức Nghị Hội Phật giáo đầu tiên, cũngkhông phải là chắc chắn. Thành Vương Xá có ý nghĩa thiêngliêng đối với Phật tử vì nhiều lý do. Không những ĐứcPhật đã nhiều lần đến an cư tại thành phố danh tiếngnầy, mà đây còn là nơi mà người anh em họ của Phật làĐề Bà Đạt Đa đã nhiều lần âm mưu ám hại Ngài. Hơnnữa, tại thành phố nầy, trong hang Sattapanni đã diễn ra NghiHội Kết Tập Kinh Điển lần thứ nhất của Phật giáo ngaysau khi Đức Phật nhập diệt. Vương Xá còn là một trung tâmhoạt động mạnh mẽ của Kỳ Na Giáo, trong thời xưa cũngnhư hiện nay, hiện vẫn còn những di tích quan trọng củacác điện thờ và công trình điêu khắc Kỳ Na Giáo. Có thểnhận ra một đài kỷ niệm kỳ lạ nơi một điện thờ hìnhlăng trụ bằng gạch, gần như ở ngay trung tâm thành phốcổ. Ngôi điện nầy có tên là Maniyar Matha, và theo truyềnthuyết địa phương, nó được dành để thờ cúng Mani-naga,vị thần bảo hộ của thành Vương Xá—City of Royal Palaceof King Bimbisara (Old City of king Bimbisara)—Capital of the ancientIndian kingdom of Magadha, during Sakyamuni Buddha’s lifetime, present-dayRajgir city in Bihar state of the northeast India, where the Buddha firstrealized the truth, and the site of the first council following the Buddha’spassing away. Rajagrha at the time of King Bimbisara was a valley surroundedby five Hills. The Five Hills encircled the city completely like the wallsof town. The old city was about one mile from east to west, and a mileand a half from south to north.Rajagrha was an important centerfor Buddhist monasticism, and the Buddha is reported to have spent sevenrainy season retreats there. It was also the site of a number of importantBuddhist monasteries, including the first reported building for monks,named Venuvana-arama. According to Buddhist tradition, it was the siteof the “First Buddhist Council,” which was convened shortly after theBuddha’s death. It was sponsored by King Bimbisara, who nominated thearhat Kasyapa as president of the council. The main intention of the gatheringof contemporary monks was to settle the Sutra-Pitaka and Vinaya-Pitaka,and to that end 500 arhats who had been present when the Buddha’s sermonswere delivered convened to recount what they had heard. Upali consideredthe learning expert on monastic discipline, recited the Vinaya; and Ananda,who as the Buddha’s personal attendant had been present at all of hissermons, recited the sutras. At the conclusion of the council, the canonwas declared to be accomplished. King Bimbisara is said to have removedhis capital here from Kusagrapura a little further eastward, because offire and other calamities. Rajagrha was surrounded by five hills, of whichGrdhrakuta (Vulture Peak) became the most famous. It was the royal cityfrom the time of Bimbisara until the time of Asoka. The remains of theancient city are very few. The site appears to have suffered much at thehand of time. Its ruins are still extant at the village of Rajgir, somesixteen miles South Southwest of Bihar; they form an object of pilgrimagesfor the Jains. The ruins indicate that the followers of different religiousdenominations lived here. The Buddhist remains, except for a few isolatedimages, it is not impossible that the visible monuments were denuded partlythrough religious animosities. Even the identification of the Sattapannicave, the site of the First Council, is not beyond doubt. Rajagrha wassacred to the Buddhists for more than one reason. Not only did the Buddhago into a retreat several times in this famous city, but it was also theplace where Devadatta, his wicked cousin, made several attempts on hislife. Moreover, in this city, in the Sattapanni cave of the Vaibhara hill,was held the first Buddhist Council just after the parinirvana. Rajagrhawas also an active center of Jainism in ancient times, as it is now, andinteresting remains of Jaina shrines and sculptures are still extant. Asingular monument may be recognized in the cylindrical brick shrine, almostat the center of the old city. It is known as Maniyar Matha, and was dedicated,according to local tradition, to the worship of Mani-naga, the guardiandeity of the city of Rajagrha.
54)Rajargrha stupa: Tháp Vương Xá—Tại thành Vương Xá, nơi ĐềBà Đạt Đa phá hòa hợp Tăng, nhưng chư Tăng đã được Phậthóa độ khiến họ trở lại hòa hợp thanh tịnh. Đây làmột trong tám ngôi tháp thiêng lớn của Phật giáo—Rajargrha,where Dvadatta was destroyed and the Sangha purified again by the Buddha.This is one of the eight Great Spiritual or Sacred Stupas of Buddhism.
55)Rajayatana Tree: Dưới gốc cây này Đức Phật đã trải quasuốt tuần lễ thứ bảy sau khi Ngài đạt được đại giác.Chưa ai biết địa điểm chính xác. Người ta nói Đức Phậtngồi trên một phiến đá trồi lên từ dưới đất, và chínhtại nơi này Ngài đã quy-y cho Tapussa và Balluka, hai thươngnhân từ Utkala, bây giờ là Orissa. Từ cây Rajayatana, mà vịtrí cũng chưa được xác định, Đức Phật đã đi trở lạicây Bồ Đề và sau đó đi về hướng Vườn Lộc Uyển ởBa La Nại, bây giờ là Isipatana—The tree under which the Buddhaspent the seventh week after his Supreme Enlightenment. The actual siteis not known yet. The Buddha is said to have sat on a stone seat whichsprang up there from the ground and there he made his first converts, Tapussaand Balluka, two merchants from Utkala, modern Orissa. From the Rajayatanatree, the site of which has not been identified yet, the Buddha returnedto the Bodhi Tree and, after sometime, thoughtfully proceeded to the DeerPark at Sarnath, modern Isipatana.
56)Ratanagraha Chaitya (skt): Tháp Ratanagraha Chaitya là một ngôi thápthờ không có nóc, đánh dấu nơi Đức Phật đã trải quatuần lễ thứ tư sau khi Ngài đạt được đại giác. Tạiđây Ngài đã thiền định và tụng kinh “Samants Pathana.”Trong khi thiền định, những ánh sáng sắc xanh, vàng, đỏ,trắng, cam... từ kim thân của Ngài chiếu tỏa ra. Lá cờ Phậtgiáo tại Ấn Độ và Tích Lan được phác họa ra từ nhữngmàu sắc này—A small roofless shrine, marks the place where the Buddhaspent the fourth week in meditation and recited to himself “Samants Pathana.”While in contemplation, the blue, yellow, red, white, and orange rays emanatedfrom his body. The Buddhist Flag of India and Ceylon are designed withthese colors.
57)Sankasya (skt): Tăng Già Thị—Tăng Ca Xá—Tăng Kha Gia—TăngKha Luật Đa Nhĩ—Một vương quốc cổ tọa lạc về phíabắc Ấn Độ. Bây giờ là Samkassam, một làng khoảng 45 dậmvề phía tây bắc của Kanauj. Một Thánh tích có liên quan đếncuộc đời của Đức Phật. Theo truyền thuyết, đây là nơimà Đức Phật đã đến trần gian từ cung trời Đao Lợi.Chính tại nơi nầy, Ngài đã giảng Vi Diệu Pháp cho thân mẫucủa Ngài cũng như chư Thánh khác. Do có liên quan với câuchuyện thiêng liêng nầy nên Sankasya đã trở thành một điểmhành hương quan trọng và nhiều đền tháp, tu viện lớn đãđược xây dựng tại đây trong thời cực thịnh của Phậtgiáo. Cả Pháp Hiển và Huyền Trang đều đã đến chiêm báinơi nầy, và đã để lại những mô tả kỹ càng về cáccông trình kiến trúc quan trọng. Tuy nhiên, do bị bỏ phếlâu ngày, cho nên tất cả các công trình nầy đều đang sụpđổ, mục nát. Hơn nữa, các chi tiết từ các nhà hành hươngTrung Quốc không đủ giúp xác định được vị trí của cácphế tích. Theo Pháp Hiển trong Tây Vực Ký: “Xứ này phìnhiêu, dân cư đông đúc thịnh vượng và vô cùng hạnh phúc.Khách từ phương xa đến đều được đón tiếp nồng hậu,và được cung cấp đầy đủ những thứ cần dùng cho cuộchành trình.” Tại Sankasya, người ta tin rằng Đức Phật đãtrở về từ cung trời Đao Lợi (cõi trời 33 tầng) sau khiNgài đã thuyết pháp cho mẹ và chư Thiên tại đây. Theo truyềnthuyết, Đức Phật trở về bằng một chiếc thang có ba đường,Ngài đi đường giữa, trời Phạm Thiên và Đế Thích đi haibên. Câu chuyện Đức Phật trở về từ cung trời Đao Lợiở Sankasya đã là một đề tài nghệ thuật Phật giáo từxa xưa tại đây. Trong một bức họa ở Bharhut, chiếc thangba đường nằm giữa, dưới chân thang là cây Bồ Đề vàKim Cang Tòa. Có dấu chân thứ nhất của Đức Phật trên bậctrên cùng và dấu chân thứ nhì trên bậc thứ ba của đườngthang chính giữa. Bốn phía chung quanh thang là một số kháchquan gồm vua chúa, các quan đại thần và thường dân đangmong đợi Đức Phật trở về. Cũng giống như cảnh phác họaở Sanchi. Vì sự liên hệ thiêng liêng của nó với Đức Phậtmà Sankasya trở thành một trong những thánh địa thiêng liêngnhất của Phật giáo với một số tháp và tự viện đượcdựng lên từ thời xa xưa. Pháp Hiển, nhà hành hương Trungquốc vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch nói: “Khi Đức Phậtsắp sữa trở về từ cung trời Đao Lợi, Ngài đã làm mộtcái thang tam cấp bằng bảo châu và chính Ngài đã bước xuốngbằng đường giữa làm bằng thất bảo. Phạm Thiên cũng làmmột cái thang bằng bạc theo hầu bên phải với tay cầm phấttrần. Vua trời Đế Thích làm một cái thang bằng bạc cầmdù thất bảo theo hầu bên trái. Vô số chư Thiên theo ĐứcPhật từ cung trời trở về. Khi Ngài về đến thế gian thìcác bậc tam cấp biến mất, chỉ còn lại bảy bậc thang phíadưới. Pháp Hiển nói tiếp: “A Dục Vương đã xây điệnthờ ngay trên bực thang, đặt ngay bực giữa tượng nguyênhình Đức Phật. Phía sau bệ thờ nhà vua cho dựng lên mộtcột đá cao 20 mét, bên trên cột là tượng sư tử, bốn phíaxung quanh cột là những tượng Phật.” Pháp Hiển cũng ghinhậnnhững ngôi tháp và tự viện và nói rằng “cókhoảng 1.000 chư Tăng Ni, một số thuộc Đại Thừa, số khácthuộc Tiểu Thừa.” Khi Huyền Trang viếng Sankasya vào năm636 sau Tây lịch, một số điện thờ vẫn còn. Huyền Trangnói: “Về phía đông thành phố chừng 20 dặm có một ngôigià lam với tôn tượng Đức Bổn Sư thâät tuyệt vĩ. Tạiđây có chừng 100 chư Tăng đang tu tập theo giáo pháp củatrường phái Chính Lượng Bộ. Vài ngôi tháp của các vịPhật tử tại gia có cuộc sống tịnh hạnh sống gần ngôitự viện. Bên trong vòng rào lớn của ngôi tự viện là bậctam cấp làm bằng bảo châu theo hướng Bắc Nam, và mặt thangđể xuống xoay về hướng Đông. Đây chính là nơi Đức NhưLai trở về từ cung trời Đao Lợi. Ngày trước Đức NhưLai đã lên trời qua ngả cung điện của “khu rừng Chế Ngự”và ngự tại Điện Pháp Hoa để giảng giáo pháp cho thân mẫu.Ba tháng trôi qua, Ngài muốn trở về địa giới nên vua TrờiĐế Thích cùng chư Thiên dùng thần thông dựng lên chiếcthang quý báu. Chính giữa bằng vàng, bên trái bằng lưu lyvà bên phải bằng bạc. Đức Như Lai khởi lên từ Pháp Hoađiện, được chư Thánh chúng tháp tùng, Ngài đi xuống thanggiữa. Vua Trời Đại Phạm Thiên, tay cầm phất trần màu trắng,đi xuống thang bạc bên phải, trong khi cua Trời Đế Thích,tay cầm bảo cái, đi xuống bằng thang lưu ly bên tay trái.Trong lúc ấy, chư Thiên tháp tùng vừa tung hoa trời trên khôngtrung vừa tán thán vinh danh Ngài. Vài thế kỷ trước đâynhững chiếc thang này vẫn còn tại vị trí nguyên thủy, nhưngbây giờ đã bị lún sâu xuống đất nên không còn thấy nữa.Những vị thái tử vùng lân cận, buồn vì không còn thấynhững chiếc thang ấy nữa nên đã cho xây dựng những bậcthang bằng gạch và đá được trang trí với bảo châu ngaytrên nền của bậc tam cấp nguyên thủy này, gần giống nhưnhững bậc thang thời xa xưa. Những bậc thang này cao khoảng70 bộ Anh (khoảng 23 mét). Trên đó họ cho xây một ngôi tịnhxá có tượng Phật bằng đá hai bên bậc thang có hình PhạmThiên và Đế Thích, giống hệt như khi họ tháp tùng ĐứcPhật khi Ngài trở về từ cung trời Đao Lợi. Gần bên ngoàingôi tịnh xá có một trụ đá do vua A Dục dựng lên, cao khoảng23 mét (70 bộ Anh). Trụ đá có màu tím, chiếu sáng như làcó hơi nước. Chung quanh trụ có những hình chạm trỗ tuyệtmỹ. Ngài Huyền Trang đã nói thêm: “õNgoài ra, không xa nhữngbậc thang quý báu này mấy, có một ngôi tháp, nơi Đức NhưLai tắm khi Ngài vừa trở lại thế gian. Bên cạnh ngôi tịnhxá là địa điểm nơi Đức Như Lai vào định. Bên cạnh ngôitịnh xá có 50 bước chân, cao khoảng 2 mét (7 bộ Anh); nơiĐức Như Lai thường đi bộ. Ngay trên địa điểm này nơimà những bước chân của Ngài đã dẫm lên là những hìnhtượng hoa sen. Về phía bên phải và bên trái là hai ngôi thápnhỏ, được dựng lên bởi vua Trời Đế Thích và Phạm Thiên.Sau nhiều thế kỷ bị lãng quên, Sankasya cổ xưa đã đượcTướng Cunningham nhận ra vào năm 1842 tại khu làng mà bây giờcó tên là Sankisa, thuộc quận Farrukhabad của bang Uttar Pradesh.Làng Sankisa tọa lạc trên cao nguyên gần sông Kali nằm giữabiên giới các quận Farrukhabad, Etah và Mainpuri. Từ Tân ĐềLi đi Kankisa khoảng 315 cây số bằng đường bộ qua ngã quốclộsố2 Ghaziabad-Aligarth-Etah-Bewar và đi từ Bewarqua Mohammadabad-Pakhna. Từ, Sankisa cách Agra 175 cây số qua ngãFirozabad-Shikohabad-Mainpuri-Bewar-Mohammadabad-Pakhna. Trạm xe lửagần nhất là trạm Pakhna trên tuyến đường Shikohabad- Farrukhabad.Phế tích quan trọng của Sankasya là phế tích trụ đá vuaA Dục, trên đó có chạm khắc hình sen và lá Bồ Đề. Gầnđó có một ngôi tự viện nằm ngay dưới gốc cây Bồ Đề.Ngôi tự viện được Hòa Thượng Vijaya Soma, một vị Tăngđến từ Tích Lan, xây dựng vào năm 1957. Ngôi đền thờ mớivới bức tượng đứng của Đức Phật hai bên được PhạmThiên và Đế Thích tháp tùng khi Ngài trở về từ cung trờiĐao Lợi. Cách trụ đá vua A Dục khoảng 6 mét, có một đồibằng gạch đặc mà ngày trước là nền của khu kiến trúcPhật giáo. Nhưng bây giờ là ngôi đền Ấn Giáo thờ nữthần Visharidevi. Người ta tin rằng Đức Phật đã từ cungtrời Đao Lợi đi xuống tại chỗ này. Có một số đông Phậttử thăm viếng Sankasya hằng năm vào khoảng tháng 10 khi cólễ hội tôn giáo. Nói về dân chúng tại Sankasya thì NgàiHuyền Trang đã nói: “Cư dân tại Sankasya rất nhu hòa vàhiếu học.” Nhưng ngày nay cho đến năm 1960 khi cố Hòa ThượngVijaya Soma, gốc người Tích Lan thăm viếng Sankasya thì cảvùng này không có lấy một ngôi trường nên Ngài đã xâydựng tại đây một ngôi trường. Ngôi trường này ngày naycó tên là trường Trung Học cao cấp “Bhadant Vijaya Soma VidyaMandir,” trường đóng một vai trò rất hữu ích trong việcphát triển giáo dục trong và quanh vùng Sankasya—An ancient kingdomand city in Northern India (Kapitha). The modern Samkassam, now a village45 miles northwest of Kanauj. A sacred place connected with the life ofthe Buddha. It is said that this is where the Buddha have descended toearth from the Trayastrimsa heaven. This is where he preached the Abhidharmato his mother and other Gods. Owing to this sacred association, Sankasyabecame an important place of pilgrimage. Important shrines, stupas andmonasteries were built on the site in the heyday of Buddhism. Both Fa-Hsienand Hsuan-Tsang visited the place and left interesting accounts of theimportant monuments. However, through long neglect, all is now in crumblingruins. Furthermore, the accounts of the Chinese pilgrims are not sufficientto help us identify the locations of the ruins. According to Fa-Hsien inthe Records of the Buddhist Kingdoms: “This country is fertile, the inhabitantsare populous, prosperous and extremely happy. People from other countrieswho come here, all are warmly welcome and provided with what they needfor their trip.” At Sankasya, the Buddha is believed to have descendedto the earth from the Trayastrimsa Heaven (Heaven of the Thirty-three Gods)after preaching to His mother and other Gods. This event is said to haveoccurred after the great miracle performed by the Buddha at Sravasti. Accordingto tradition, the Buddha came down by a triple ladder, accompanied by theGods Brahma and Sakra(Indra). The story of the Buddha’s descentfrom heaven at Sankasya has been a popular theme in early Buddhist art.In the Bharhut illustration, the triple ladder is at the center of thescene with a Bodhi Tree and Vajrasana at its foot. There is one footprintof the Buddha on the top step and a second footprint on the bottom stepof the middle ladder. Around the ladder on all sides are a number of spectators,kings, ministers and people awaiting anxiously the return of the Buddha.Somewhat similar scene is depicted at Sanchi. Because of its sacred associationwith the Buddha, Sankasya became one of the most important Buddhist holyplaces with a number of Stupas and monasteries were erected there in ancienttimes. Fa-Hsien, who visited the site in the first decade of A.D. 5th century,says, “When the Buddha was about to come down from heaven to earth, heproduced by a miracle three flights of jeweled steps and he himself camedown the middle flight which was made of the seven preciosities. Brahmaalso produced a flight of silver steps to the right, where he was in attendancewith a fly-brush in his hand. The God of Heaven, Indra, produced a flightof copper steps to the left, where he was in attendance with an umbrellaof the seven preciosities in his hand. Countless hosts of Devas followedBuddha down; and when He reached the earth, the three flights disappearedinto ground except seven steps whichremained.” Continuing, Fa-Hsiensays: “Asoka built a shrine over the step, placing on the middle flighta full length image of Buddha. Behind the shrine he raised a stone columnsixty feet in height; upon the top he placed a lion, and within the column,at the four sides, images of Buddha.” Fa-Hsien also notices other stupasand monasteries and says that “there are here about 1,000 monksand nuns, all of whom obtain their food from a common stock and belong,some to the greater vehicle and some to the lesser one.” When Hsuan-Tsangvisited Sankasya in A.D. 636, a number of shrines were still standing.Hsuan-Tsang says: “To the east of the city 20 li or so is great Sangharamawith the sacred image of the holy form (of Buddha) is most wonderfullymagnificent. There are about 100 monks here, who study the doctrines ofthe Sammatiya school. Several myriads of “Pure men” (religious laymen)live by the side of this Sangharama or Convent. Within the great enclosureof the Sangharama there are three precious ladders, which are arrangedside by side from north to south, with their faces for descent to the east.This is where Tathagata came down on his return from the Trayastrimsasheaven. In old days Tathagata, going up fromthe ‘wood of the conqueror’ascended the heavenly mansions, and dwelt in the Saddharma Hall, preachingthe law for the sake of his mother. Three months having elapsed, beingdesirous to descend to earth Sakra, King of the Devas, exercising his spiritualpower, erected these precious ladders. The middle one was yellow gold,the left-hand one of pure crystal, the right-hand one of white silver.Tathagata rising from the Saddharma hall, accompanied by a multitude ofDevas, descended by the middle ladder. Maha Brahma-raja holding the whitecharmara, came down by the white ladder on the right, while Sakra, Kingof Deva (Devendra) holding a precious canopy (parasol), descended by thecrystal ladder on the left. Meanwhile, the companies of Devas in the airscattered flowers and chanted their praises inhis honor. Some centuriesago the ladders still existed in their original position, but now theyhave sunk into the earth and have disappeared. The neighboring princes,grieved at not having seen them, built up of bricks and stones ornamentedwith jewels, on the ancient foundations (three ladders) resembling theold ones. They are about 70 feet high. Above them, they have built a Viharain which a stone image of Buddha, and on either side of this is a ladderwith the figures of Brahman and Sakra, just as they appeared when firstrising to accompany Buddha in his descent. On the outside of the Vihara,but close by its side, there is a stone column about 70 feet high whichwas erected by Asoka-raja. It is of the purple color, and shining as ifwith moisture. The substance is hard and finely grain. There are carvedfigures inland, of wonderful execution, on the four side of the pillararound it.”Hsuan-Tsang further says: “Besides the precious ladder(temple) and not far from it, there is a Stupa, where Tathagatawhenin the world, bathed himself. By the sideof this is Vihara on thespot where Tathagata entered Samadhi. By the side of Vihara there is along foundation wall 50 paces in length and 7 feet high; this is the placewhere Tathagata took existence; this is a place where Tathagata took exercise.On the spot where his feet trod are figures of the lotus flower. On theright and left of the wall are (two) littles Stupas, erected by Sakra andBrahma. After centuries of oblivion, the ancient Sankasya was identifiedby General Cunningham in 1842 with the modern village of Sankisa in thedistrict of Farrukhabad of Uttar Pradesh. The village of Sakisaissituated on a high plateau near the Kali river where the borders of thedistricts of Farrukhabad, Etah and Mainpuri meet. From Delhi, Sankisa is315 kilometers by road via Ghaziabad-Aligarth-Etah-Bewar on National Highwaynumber 2 and from Bewar via Mohammadabad-Pakhna. From Agra, Sankisa is175 kilometers via Firozabad-Shikohabad-Mainpuri-Bewar-Mohammadabad-Pakhna.The nearest railway station is Pakhna on the Shikohabad- Farrukhabad line.An important relic of the past at Sankasya is the stump of the broken Asokapillar surmounted by the elephant capital. It has beautiful carvings oflotus and leaves of Bodhi tree. Nearby is a small modern Buddhist templeunder the Bodhi tree. It was constructed in 1957 by Venerable Vijaya Soma,a Buddhist monk from Sri Lanka. The modern shrine has a standing imageof the Buddha flanked by Brahma and Sakra who are believed to have accompaniedthe Buddha on His descent from heaven to earth. About 20 yards to the southof the Asokan Pillar, there is a high mound of solid brick work which wasonce a Buddhist structure. But it is now surmounted by a temple dedicatedto Hindu Goddess Visharidevi. It is believed that the Buddha had descendedfrom heaven at this place. Buddhists visit Sankasya in large numbers everyyear on the Ashvina (Sharad) Purnima (in October) when a religious congregationtakes place. About the people of Sankasya (Kapitha), Hsuan-Tsang had saidthat, “the manner of the people are soft and agreeable. The men are muchgiven to learning.” But the modern Sankasya had no school till 1960 whenthe late Venerable Vijaya Soma of Sri Lanka established a school there.This school now named as “Bhadant Vijaya Soma Vidya Mandir Higher SecondarySchool” is playing a very useful role on spreading education in and aroundSankasya.
58)Sravasti (skt): Xá Vệ Quốc—Xá Bà Đề—Thất La Phạt—ThấtLa Phạt Tất Để—Thi La Bạt Đề—Xả La Bà tất Đế Da.
(Đườngvào phế tháp Ngài Cấp Cô Độc tại Xá Vệ Quốc
Entranceto the ruin of Anathapindika Stupa in Sravasti)
XáVệ mà nay là Saheth-Maheth ở Uttar Pradesh, kinh đô của vươngquốc Kiều Tất La. Trong thời Đức Phật, Xá Vệ là tên củamột vương quốc lớn ở Ấn Độ, vương quốc của vua BaTư Nặc, cha của Thái Tử Kỳ Đà. Người ta nói đây là thànhphố nổi tiếng về người và vật (xứ văn vật hay xứ màcái gì cũng có), nằm về phía Nam ngạn sông Hằng, khoảng500 dậm về phía tây bắc của thành Ca Tỳ La Vệ, bây giờlà Rapetmapet, phía nam sông Rapti. Chính nơi đây, thương giaCấp Cô Độc (Anathapindika) đã cho xây một tu viện lớn trongkhu vườn mua lại của Thái Tử Kỳ Đà bằng số vàng vớicái giá thần thoại để đón tiếp Đức Phật. Câu chuyệnmua lấy khu vườn và dâng tặng cho Đức Phật là một đềtài được yêu chuộng trong nghệ thuật Phật giáo thời trước.Sau đó, nhiều đền đài và tu viện đã được xây dựnglên tại đây và nơi nầy vẫn tiếp tục là một trung tâmphồn thịnh của Phật giáo trong một thời gian dài. Ngườita nói nước Xá Vệ nằm trong Vương Quốc Bắc Kiều TấtLa, khác hẳn với Vương Quốc Nam Kiều Tất La. Nước Xá Vệlà một nơi an cư mà Đức Phật rất thích, trong đó có ngôivườn Kỳ Thọ nổi tiếng. Theo Tây Vực Ký của ngài PhápHiển, thời đó Xá Vệ có 98 ngôi tự viện xung quanh tịnhxá Kỳ Hoàn cho cả chư Tăng Đại thừa lẫn Tiểu thừa—Sravasti,modern Saheth-Maheth in Uttar Pradesh, the capital of the ancient kingdomof Kosala. During the time of Sakyamuni Buddha, Sravasti was the name ofa great kingdom in India, the kingdom of King Prasenajit, father of PrinceJeta. People said this was a city of famous things, or men, or the famouscity; it was a city and ancient kingdom in northern India, on the southernbank of the Ganges River, about 500 miles northwest of Kapilavastu, nowRapetmapet, south of Rapti River. Even from the days of the Buddha, Sravastiwas an active center of Buddhism and it was here that the merchant Anathapindikabuilt a large monastery for the reception of the Master (in the gardenof Prince Jeta, and was purchased at a fabulous price in gold). The storyof its purchase and its eventual presentation to the Buddha was a favoritetheme in early Buddhist art. In later times, shrines and monasteries aroseon this sacred spot which continued to be a flourishing center of the Buddhistfaith for a long time. It is said to have been in northern Kosala, distinctfrom the southern kingdom of that name. It wasa favourite placeof Sakyamuni, the famous Jetavana being there. According to the Recordsof the Buddhist Kingdoms, Fa-Hsien reported that at that time, Sravastihad 98 monasteries around Anathapindika-Vihara for both Mahayana and Hinayanamonks.
59)Vaisali (skt): Tỳ Xá Ly (Quảng Nghiêm Thành)—Vesali (p)—TỳDa Ly—Bề Xá Ly—Bề Xá Lệ Dạ—Duy Da—Duy Da Ly—Phệ XáLy—Tùy Xá Lợi.
(Bảngtưởng niệm phế tích cổ thành Tỳ Xá Ly
Memorialplaque of the ruin of Ancient Vaushali)
a)Thành Tỳ Xá Ly thời Đức Phật—Vaishali during the Buddha’stime: Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Tỳ Xá Lylà tên của kinh đô nước Quảng Nghiêm hùng mạnh, một vươngquốc cổ ở Trung Ấn, nơi 700 vị Hiền Thánh đã kết tậpkinh điển lần thứ hai, bây giờ gần Bassahar, thuộc Bihar,phía bắc Patna. Theo Giáo Sư Soothill trong Trung Anh Phật HọcTừ Điển, dân tộc Tùy Xá Lợi là dân tộc của một nướccộng hòa cổ Vaisali, trong số những đệ tử Phật đầu tiên.Thành Tỳ Xá Ly tọa lạc bờ Bắc sông Hằng Hà. Thành đượcbao bọc bởi cả vùng đồi núi của xứ Nepal về phía bắcvà bờ sông Gandak về phía tây. Năm năm sau ngày Đức Phậtthành đạo tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài đã đi đến thànhTỳ Xá Ly, thủ phủ của một trong những nước Cộng Hòađầu tiên trên thế giới. Tại đây Đức Phật thuyết giảngkinh Bảo Tích cho hội chúng và có 84 ngàn người tín thọsau khi nghe được kinh nầy. Cũng tại thành Tỳ Xá Ly nầy,lần đầu tiên phụ nữ được phép xuất gia gia nhập giáođoàn. Bà di mẫu của Đức Phật là Kiều Đàm Di, cùng với500 phụ nữ dòng họ Thích Ca đã làm một cuộc đi bộ từthành Ca Tỳ La Vệ đến Tỳ Xá Ly để xin được gia nhậpvào giáo đoàn. Tuy nhiên, ba lần Đức Phật không hứa khả.Cuối cùng, họ tự cạo tóc, khoát y vàng và cầu xin ĐứcPhật lần nữa. Sau cùng Đức Phật chấp nhận người nữgia nhập vào giáo đoàn như những vị Tỳ Kheo Ni. Cũng chínhtại thành Tỳ Xá Ly, một kỷ nữ tên Amrapali (Ambapali?), đãđược sự kính trọng của giáo đoàn và một vị trí đặcbiệt trong lịch sử Phật giáo vì sự cúng dường quảng đạicủa nàng. Nàng đã cúng dường khu vườn xoài của nàng (NạiUyển) cho Tăng đoàn. Sau đó nàng gia nhập giáo đoàn khi nhậnchân ra sự vô thường của vạn hữu, kể cả sắc đẹp củanàng—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English BuddhistTerms, Vaisali, an ancient kingdom and city and the capital the powerfulLicchavis, where the second synod was held with 700 famous learned monks,near Basarh (Bassahar), in Bihar, north of Patna. According to ProfessorSoothill in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Licchaviswere the people of the ancient republic of Vaisali who were among the earliestfollowers of sakyamuni. Vaishali is situated on the northern banks of theGanga. It is bound by the hills of Nepal on the north and the river Gandakon the west. Five years after the Enlightenment in Bodhgaya, the Buddhacame to Vaishali, the capital of one of the first republican states inthe world. Here, the Buddha preached the Ratna Sutra to those assembled,and eighty-four thousand people embraced the new faith. Also in Vaishali,for the first time women were ordained into the Sangha. The Buddha’sfoster mother, Mahaprajapati Gautami, along with 500 Sakyan women madea pilgrimage by foot from Kapilavastu to Vaishali, seeking to join theOrder. Three times the Buddha refused their entreaties. Ultimately theyshaved their heads, donned the orange robes and beseeched the Buddha again.The Buddha was finally persuaded to admit the women as bhiksunis or nuns.It was also at Vaishali that Amrapali, the famous courtesan, earned therespect of the Sangha and a place in history, with her generous donations.Once the Buddha was visiting Vaishali, Amrapali invited Him to her houseand the Buddha graciously accepted the offer. She gifted her mango groveto the Sangha. Amrapali joined the Order after realizing the transitorynature of all things, including beauty.
(Trụđá do vua A Dục dựng trong thành Tỳ Xá Ly
Trênđầu trụ hãy còn nguyên hình tượng sư tử
Vaishali-Asoka’sstone pillar)
b)Thành Tỳ Xá Ly vào những thế kỷ thứ 5, 6 và 7—Vaishaliduring the fifth, sixth and seventh centuries: Vào những thế kỷthứ 5, 6 và 7, thành Tỳ Xá Ly từng là thành trì Phật giáo.Các nhà hành hương Trung Hoa như Pháp Hiển và Huyền Trang,trên đường đi qua Ấn Độ đã ghé lại Tỳ Xá Ly. HuyềnTrang mô tả thành phố nầytrải rộng trên một diệntích từ 10 đến 12 dặm vuông. Ông viết rằng bên trong bênngoài và khắp nơi xung quanh thành phố, số đền chùa nhiềuđến nỗi không sao kể hết. Tiếc thay, trên vùng đất nầyhiện nay hầu như không còn nhìn thấy một di tích đền chùanào cả. Tại Kolhua, cách Raja Bisal ko Gadh hai dặm về phíatây bắc, có một trụ đá nguyên khối, dân địa phương gọilà Bhimsen, bằng sa thạch mài thật láng, bên trên có mộtđầu trụ hình chuông nâng đỡ một tượng sư tử đứngtrên bệ vuông. Trụ nầy cao hơn mặt đất hiện nay khoảng7 mét, một đoạn trụ dài bị chôn vùi dưới đất qua dòngthời gian. Nhìn kiểu dáng thì giống các trụ đá của vuaA Dục, nhưng đào xới xung quanh thân trụ thì chẳng thấymột dòng chữ nào của vua A Dục cả. Tuy nhiên, có thể xácđịnh đây là một trong các trụ đá của vua A Dục mà HuyềnTrang đã nói đến tại Tỳ Xá Ly ngày xưa. Dãy dài các câytrụ thuộc quận Champaran và quận Muzaffarpur tại Ramapurva,Lauriya Araraj, Lauriya Nandagadh và Kolhua, được xem là đã đánhdấu các chặng đường trên con đường vua A Dục đi từ thànhHoa Thị (Pataliputra) đến Lâm Tỳ Ni khi ông lên ngôi được20 năm. Cách một quảng ngắn về phía nam có một hồ nướcnhỏ, có tên là Rama-kunda, đã được Cunningham xác định làHồ Khỉ (Markata-hrada) ngày xưa, và người ta cho rằng hồnầy do một bầy khỉ đào để lấy nước cho Đức Phậtdùng. Về phía tây bắc có một gò đống đổ nát, nay chỉcòn cao độ 5 mét và dưới đáy có đường kính độ 20 mét,được xác định là những gì còn lại của ngôi tháp A Dụcmà Huyền Trang đã nói đến. Trên đỉnh gò nầy có một ngôiđền bằng gạch kiểu mới bên trong có một tượng Phậtthời Trung cổ. Theo lời kể lại thì Đức Phật đã đếnviếng nơi nầy ba lần khi ngài còn tại thế. Cũng theo lờikể thì trong một lần đến đây, ngài đã được bầy khỉdâng một chén mật, sự kiện được cho là một trong támsự kiện lớn trong đời Đức Phật. Cũng tại nơi nầy, ĐứcPhật đã loan báo ngày sắp nhập diệt của mình, và sau khingài nhập Niết Bàn, người xứ Quảng Nghiêm đã dựng mộtbảo tháp trên phần chia xá lợi của Ngài. Hơn một trăm nămsau ngày diệt độ của Đức Phật, Nghị Hội Kết Tập lầnhai đã diễn ra tại đây. Đối với Kỳ Na giáo thì Tỳ XáLy là nơi sinh ra của Mahavira, vị Tirthankara Kỳ Na giáo thứhai mươi bốn. Raja Bisal Ka Gadh được xem là thành lũy củaTỳ Xá Ly. Đây là một gò đất lớn được lót gạch, caokhoảng hai mét rưỡi trên mặt bằng, có chu vi gần một dặm.Lúc đầu được bao bọc bởi một con mương, thành nầy cólối ra vào ở phía nam bằng con đường đất cao. Các cuộckhai quật đã làm lộ ra phần nền của những tòa nhà nằmtrên một mặt bằng không đều, có thể có niên đại từthời Gupta. Các phát hiện đáng kể là những con dấu chứngtỏ thành Tỳ Xá Ly đã từng là một đầu não hành chánhquan trọng trong thờikỳ Gupta, và một con dấu đángchú ý, khắc chữ Maurya, thuộc về một tiền đồn tuần traở Tỳ Xá Ly—During the fifth, sixth and seventh centuries, the cityof Vaisali was a stronghold Buddhism. The Chinese pilgrims, i.e., Fa-Hsienand Hsuan-Tsang, visited Vaisali in the course of their travels. Hsuan-Tsangdescribed the city as covering an area of 10 to 12 square miles. He wrotethat, within and withoutand all around the town of Vaisali, thesacred monuments were so numerous that it was difficult to mention themall. Unfortunately, the area is now practically denuded of any visibleremains of religious edifices. At Kolhua, two miles to the north-west ofRaja Bisal ka Gadh, there stands a monolithic, locally known as Bhimsen’sLath of highly sandstone surmounted by a bell-shaped capital that supportedby a bell-shaped capital and supports on the sedent figure of a lion ona square abacus. It is about 22 feet above represent ground level, a considerableportion having sunk underground in the course of time. In Style it resemblesthe edict pillars of Asoka, but diggings round the shaft have failed toreveal any Asokan inscription. Nevertheless, it can be identified withone of the Asoka pillars mentioned by Hsuan-Tsang at the site of ancientVaisali. The line of pillars in the Champaran and Muzaffarpur district,at Ramapurva, Lauriya Araraj, Lauriya Nandagadh, and Kolhua, is believedto have marked the stages of a royal journey from Pataliputra to Lumbiniwhich Asoka undertook in the 20th year of his consecration. Nearby to thesouth, there is a small tank, called Rama-kunda, identified by Cunninghamwith the ancient Markata-hara or monkey’s tank, believed to have beendug by a colony of monkeys for the use of the Buddha. To the northwestthere is a ruined mound, at present only 15 feet high and with a diameterof about 65 feet at the base, which has been identified with the remainsof the Asoka stupa mentioned by Hsuan-Tsang. On the summit of this moundstands a modern brick temple enshrining a medieval image of Buddha. TheBuddha is said to have visited in three times during his life-time. Inonce of these visits,several monkeys are said to have offered theBuddha a bowl of honey, an incident mentioned among the eight great eventsin the life of the Buddha. It was here again that the Buddha announcedhis approaching nirvana, and after the nirvana the Licchavis are said tohave errected a stupa over their share of the remains of the Buddha. Alittle over a hundred years after the nirvana, the Second Buddhist Councilwas held here. To Jaina also, Vaisali was equally sacred, being the birth-placeof Mahavira, the twenty-fourth Jaina Tirthankara. The site of Raja Bisalka Gadh is believed to represent the citadel of Vaisali. It consists oflarge brick covered mound, about eight feet above the surrounding leveland slightly less than a mile in circumference. Originally surrounded bya ditch, it was approached by a broad embanked causeway from the south.Excavations have exposed the foundations of old buildings of irregularplan which may date back to the Gupta period. Besides, the most interestingfinds consist of a large number of clay seals. The official seals indicatethe Vaisali was an important administrative headquarters in the Gupta period,and an interesting seal, engraved in characters of the Maurya period, refersto the patrol outpost at Vaisali.
c)Thành Tỳ Xá Ly thời cận đại—Vaishali during the recent time:Trong thời cận đại, thành Tỳ Xá Ly là ngôi làng Basarh, cáchthành phố Patna khoảng 60 cây số, nơi được nhà khảo cổngười Anh, Alexander Cunninghamxác nhận là cổ thành TỳXá Ly. Không có phương tiện giao thông trong địa phương nầyvà du khách được khuyên nên dùng xe riêng khi đi ngoạn cảnhtại đây. Cách khu phố chính chừng 3 cây số là ngôi tịnhxá Kutagarshala, được dân Lichchavis dựng lên cho Đức Phật.Trong số những khám phá khảo cổ quí báu nhất tại Tỳ XáLy là một chiếc hòm đựng tro của Đức Phật, hiện cònđược bảo tồn tại viện Bảo Tàng Patna. Về phía bắc làtrụ đá của vua A Dục và một ngôi phế tháp bằng gạch,nguyên thủy được nhà vua dựng lên để đánh dấu nơi ĐứcPhật thuyết giảng bài pháp cuối cùng của Ngài—At the presenttime, Vaishali is the village of Basrah, 60 kilometers away from Patna,which the Bristish archeologist, Alexander Cunningham, identified as theancient Vaishali. There is no local transportation and visitors are advisedto take their own vehicles for sightseeing. Kutagarshala Vihara is 3 kilometersfrom the main town. It was built by the Lichchavis for the Buddha. Amongthe precious archeological finds is the relic casket containing the ashesof the Buddha, now preserved in the Patna Museum. In the north is the AshokaPillar and a large brick stupa, originally built by the Emperor to markthe site where the Buddha delivered his last discourse.
60)Verula (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng tây Ấn Độ. TheoGiáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, tại Verulacó thể tìm thấy những hang động đẹp nhất thế giới,những hòn núi được đục thành những Thánh điện đồ sộ.Trong số ba mươi bốn hang, có mười hai hang ở phía namlà của Phật giáo, số còn lại thuộc Bà La Môn giáo hay KỳNa giáo. Các hang của Phật giáo là những hang có trước tiên,có niên đại từ năm 450 đến 650. Lối vào đại sảnh điqua một sân lộ thiên rộng. Trong hang Visvakarma có một tượngPhật lớn với các thị giả và thiên thần đi kèm đượcđặt trên tòa sư tử ở một vòng cung nhô ra cửa ngọn tháp.Tại đây còn có một số tượng Phật và tượng Bồ Tátkhác—Name of a Buddhist place in west India. According to Prof. Bapatin The Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, at Verula (Ellora) most wonderfulcaves in the world can be found, mountains cut into colossal sanctuaries.Of the thirty-four caves, the twelve to the south are Buddhist while theremaining are Brahmanical or Jaina. The Buddhist caves are the earliest,dating from 450 to 650 A.D. The entrance to the hall lies through a largeopen court. In the cave named Visvakarma, there is a huge image of theBuddha, flanked by attendants and heavenly deities, is seated on a lionthrone in a projecting arch of the stupa. There are a number of Buddhaand Bodhisattva images.
61)Vikramasila (skt): Tu Viện Vikramasila—Một trong bốn tu việnlớn nhất tại miền Bắc Ấn Độ dưới thời Hoàng ĐếDharmapala. Vào thời đó Nalanda, Uddantapuri (Bihar Sharif), Vajrasana,và Vikramasila là bốn tu viện lớn nhất. Trong số nầy, tuviện Vikramasilalà quan trọng hơn cả và có nguồn gốckhá đặc biệt. Hoàng đế Dharmapala của triều đại Pala trongmột chuyến tuần du các vùng đất nầy rất say mê khi nhìnthấy một ngọn đồi nhỏ xinh xinh bên bờ sông Hằng, nênđã quyết định cho lập một tu viện tại đây. Tu viện nầycó lẽ được xây vào cuối thế kỷ thứ 8, đã phát triểnthành một trung tâm văn hóa lớn hai trăm năm mươi năm sauđó. Số Tăng sinh từ các nước ngoài đến đây tu học đônghơn ở Na Lan Đà. Trong số các giảng sư ở Vikramasila có 108học giả, 8 nhà bác học nổi tiếng, và đại học giả Ratnakarasanti,viện trưởng tu viện. Trong số các học giả nổi tiếng củatu viện gồm có Santibhadra, Maitripa (Avadhutipa), Dombipa Sthavirabhadram,Smrtyakara-Siddha, và Dipankara-Srijnana. Tại trung tâm tu viện cómột ngôi đền xinh xắn thờ Quán Thế Âm Bồ Tát, bên cạnhđó là 53 ngôi đền lớn nhỏ. Trong số các vị thần và nữthần được thờ trong các ngôi đền nầy, có một số tượngMật tông. Ba tu viện kia cũng thuộc lãnh thổ của triều đạiPala, vốn có quan hệ đặc biệt với Vikramasila. Tám mươibốn vị Siddha đều sống dưới các triều Pala (765-1200) vàhầu hết những vị nầy đều có liên hệ với Vikramasila.Theo các tác giả Tây Tạng thì phái Mật tông hoặc tu việnVikramasila đã làm cho quân Thổ Nhĩ Kỳ phải nhiều phen trốnchạy bằng cách niệm thần chú, nhưng lịch sử không nóiđến điều nầy—One of the four great viharas in north India duringthe reign of king Dharmapala. At that time, Nalanda, Uddantapuri (BiharSharif), Vajrasana and Vikramasila were the four greatest viharas of India.Of these, Vikramasila was the most important and had an interesting origin.The great king Dharmapala of the Pala dynasty, while on a visit to theseparts, was greatly attracted by the sight of a beautiful hill on the bankof the Ganga and decided to found a vihara at the place. The vihara, whichthus came to be built at the end of the eighth century A.D., grew intoa great seat of learning two and a half centuries later. The number ofstudents who came from foreign parts to study here was greater than atNalanda. Among the teachers who taught at Vikramasila were 108 scholars,eight famous savants, and the great scholar Ratnakarasanti who was thehead of the vihara. Santibhadra (Avadhutipa), Dombipa Sthavirabhadra, Smrtyakara-Siddha,and Dipankara Srijnana were among the eight great pandits. There was abeautiful temple of Bodhisattva Avalokitesvara at the centre of the vihara,besides the fifty-three big and small temples in the compound. Among thegods and goddesses worshipped in these temples, there were some beautifulTantric icons. The other three viharas also belonged to the kingdom ofthe Palas, who had special ties with Vikramasila. The eighty-four Siddhaslived during the Pala regime (765-1200 A.D.) and most of them were connectedwith Vikramasila in one way or another. According to Tibetan writers, theTantrics or Vikramasila had put the Turks to flight many times by magicspells, but history has a different story to tell.